Với chủ đề “Thiền định như nhiên”, trích từ quyển Bồ Tát giáo trong bộ Chơn lý của Tổ sư Minh Đăng Quang, Trưởng lão HT. Giác Sơn – Thành viên HĐCM, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Lâm Đồng, Giáo phẩm Chứng minh GĐ.II PGKS, đã có buổi thuyết giảng đến chư hành giả tại khóa tu Truyền thống Khất sĩ lần thứ 38, trong sáng 28/10/2025 (8/9/Ất Tỵ).
.jpg)
Mở đầu buổi pháp thoại, Trưởng lão HT. Giác Sơn đọc hai bài thơ sâu lắng, như một lời gợi mở về cái nhìn thiền quán trước vô thường, đưa người nghe vào pháp vị của “Thiền định như nhiên”:
“Ta già đi không gian còn trẻ mãi,
Ta chết rồi vũ trụ vẫn an nhiên
Sống chậm thôi đừng lụy bởi ưu phiền,
Rồi một thoáng ta cũng về cát bụi.
(Lê Vũ Phương Uyên)”
“Rồi một hôm nào trên bến sông,
Tâm hồn ta chợt thấy mênh mông
Lắng nghe trong cõi đời sâu thẳm,
Chẳng có chi ngoài lẽ sắc không
(Như Nhiên)”
Trưởng lão Hòa thượng giải thích, Thiền là sự suy nghĩ, tư duy, phân biệt, là cửa phát sanh trí huệ; còn Định là sự an tĩnh, yên lặng, là cửa phát sanh chơn tánh. “Trong thiền chứa tánh, trong định chứa trí”, Hòa thượng nói, đồng thời nhấn mạnh, thiền định không chỉ là phương pháp tĩnh tọa, mà còn là sự vận hành hòa hợp giữa động và tịnh của tâm, là nơi trí tuệ soi chiếu và chơn tâm hiển lộ.
.jpg)
Từ lý nhập sự, Trưởng lão HT. Giác Sơn nêu lên ba phương pháp thực hành: thiền hành, tọa thiền và dục như ý túc.
.jpg)
Minh họa cho sự thuần thục trong tu tập, Trưởng lão HT. Giác Sơn kể lại hai câu chuyện Thiền từ Nhật Bản. Một thanh niên học điềm đạm nhưng vẫn nổi giận khi bị xúc phạm, cho thấy tâm chưa thuần. Một người khác luyện “quán tưởng cái chết” suốt mười năm, đạt đến vô úy, được xem là bậc thượng thừa trong đạo.
Qua đó, Trưởng lão Hòa thượng nhấn mạnh, thiền định phải đi cùng kiến tánh, hay nói cách khác là phải thấy rõ tánh không của vạn pháp. Như trong Kinh Đại Bát Nhã nêu rõ: “Trong các pháp không có tự tánh”, Kinh Kim Cang cũng dạy: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng; nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai”.
Tại khóa tu, Trưởng lão Hòa thượng cũng trình bày rõ ràng về 6 bước của Lục diệu pháp môn gồm: Sổ tức (đếm hơi thở), tùy tức (theo hơi thở), chỉ, quán, hoàn và tịnh. Một tiến trình từ điều thân, nhiếp tâm đến thanh tịnh toàn thể, đưa hành giả trở về “như nhiên”, sống giữa đời mà tâm không động. “Khi tâm không còn đấu tranh giữa được và mất, ta an trú trong vô tranh tam muội, nội tâm bình yên, ngoại cảnh hòa thuận, thế giới sẽ an vui”, Trưởng lão Hòa thượng khẳng định.
Bên cạnh đó, Trưởng lão HT. Giác Sơn cũng nhấn mạnh pháp tu cốt yếu để đưa tâm trở về như nhiên, đó là “tự tịnh kỳ ý”, tức thanh lọc ý niệm để tâm trở thành Phật. Như trong Kinh Pháp Cú, hay Kinh Pháp Hoa, dạy rõ, khi thấy toàn thể vũ trụ là Pháp thân Tỳ-lô-giá-na, hành giả sẽ nhận ra toàn thể sơn hà đại địa chính là thân Phật, không còn phân biệt thân và pháp.
.jpg)
Như vậy, muốn “tự tịnh kỳ ý”, hành giả cần thực hiện thuần thục Tứ Niệm Xứ, pháp quán để dẫn đến chánh niệm. Cụ thể, theo Trưởng lão Hòa thượng, hành giả cần thực hiện 4 phép quán: Quán thân bất tịnh để diệt trừ tham dục; quán thọ là khổ để hiểu cảm thọ dẫn vào luân hồi; quán tâm vô thường để không bám chấp; quán pháp vô ngã để dứt vọng tưởng, an trú chân tâm. “Từ đó, hành giả đạt tâm rỗng rang không tán loạn, chính là tâm chân như tịch tĩnh”, Trưởng lão Hòa thượng khẳng định.
Trưởng lão Hòa thượng cũng chỉ rõ hai bậc của thiền và định. Đối với thiền, trước trừ vọng giống như giặt đồ dơ bằng xà phòng; sau trừ chơn giống như xả luôn nước tẩy, không dính mắc vào cái “chơn” nữa. Theo Hòa thượng, sự trừ vọng và trừ chơn này được so sánh với việc xả bỏ từ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A-tu-la, người, trời, cho đến các quả vị Bồ-tát, để đạt tới Như Lai. Đối với định, trước diệt tà, tức dùng chánh để trị tà; sau diệt chánh, tức không chấp vào sự cống cao, ngạo mạn, bởi Hòa thượng chỉ rõ: “Chánh thật sự là rỗng rang. Người xuất gia phải đi theo con đường duy nhất (chánh tri kiến) để trôi thẳng về biển cả (Niết-bàn), như khúc gỗ không tấp vào hai bên bờ sông hay ở giữa cồn”.
Muốn như vậy, theo Trưởng lão Hòa thượng, người xuất gia phải hiểu được tầm quan trọng của phước huệ và phá chấp. Trong đó, người tu phải thực hành phước huệ song tu, tránh thọ hưởng hết phước báo, đồng thời cần phá chấp trừ tướng để đạt thiền định ngay trong thuận cảnh hay nghịch cảnh. Đặc biệt, khi đối diện thuận cảnh hay nghịch cảnh, người tu đều nên giữ lòng từ bi, vì đạo lực chân thật là phải đạt đến vô ngã, không còn chấp “của ta”, không còn người đối nghịch, như lời Đức Tổ sư dạy: “Thân tịnh là xứ Phật, khẩu tịnh là pháp Phật, ý tịnh là con Phật, tâm tịnh là Đức Phật”.
.jpg)
Trong pháp hành thiền, Trưởng lão HT. Giác Sơn cũng khuyến tấn chư hành giả cần nhận diện đúng đắn về hỷ lạc tối thượng và sự chuyển hóa của thức thành trí trong tiến trình tu tập.
Nêu câu chuyện trong kinh về vị Bà-la-môn hỏi Đức Phật làm ví dụ, Trưởng lão Hòa thượng cho biết, có vị Bà-la-môn đến hỏi Đức Phật: “Vì sao Ngài lại cấm hàng đệ tử hưởng thụ sắc, thinh, hương, vị, xúc? Chẳng phải đó là những điều tốt đẹp mà con người tìm cầu sao?”. Đức Phật ôn tồn đáp: “Sắc, thinh, hương, vị, xúc, là vô thường. Vì vô thường nên chúng phải hoại diệt, mà hoại diệt thì đưa đến khổ đau. Người phàm vì mê lầm, tưởng đó là nguồn vui, nhưng kỳ thực, chính sự đắm nhiễm vào năm dục ấy khiến tâm luân hồi, sanh tử, không bao giờ được an tịnh”. Từ đó, Đức Phật chỉ dạy một niềm vui khác cao quý hơn tất cả, đó là hỷ lạc tối thượng, hỷ lạc ấy không nương vào cái hữu vi (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), mà nương vào vô vi chơn như, tức là Niết-bàn, là tánh không bất động, là an vui tuyệt đối khi tâm đã giải thoát khỏi ràng buộc của vọng tưởng, chấp trước.
Qua câu chuyện, Trưởng lão HT. Giác Sơn nhấn mạnh, ngay cả niềm vui trong thiền định cũng không nên bám chấp: “Khi hành giả đạt được sơ thiền, có hỷ và lạc do ly dục sanh, nhưng vẫn phải xả bỏ để tiến lên tầng định cao hơn. Lên nhị thiền, hỷ được xả bỏ để chỉ còn lạc và nhất tâm, rồi lại xả luôn cái lạc, chỉ còn xả và niệm thanh tịnh. Cứ thế, cho đến khi xả luôn cái tịnh, tâm không còn bám vào bất cứ trạng thái nào, đó mới là đại định, là giải thoát. Chư hành giả cần hiểu rằng, thiền định là ánh sáng mặt trời. Khi ánh sáng tập trung chiếu vào một điểm, chỗ đó liền tỏ rạng. Cũng vậy, tâm chuyên nhất trong định thì trí tuệ bừng sáng, chiếu phá mọi bóng tối vô minh”.
.jpg)
Từ nền tảng của thiền định, Hòa thượng dẫn sang phần chuyển thức thành trí, giải thích tiến trình chuyển hóa nội tâm mà hành giả cần trải qua:
Trưởng lão Hòa thượng chỉ rõ, đó chính là bốn trí Bồ-tát, là kết quả của thiền định đúng pháp: “Người thiền định chân chánh không chỉ dừng ở chỗ an tịnh của tâm, mà còn phải thấu lý rồi từ lý sanh sự, đem trí huệ ấy ứng dụng trong đời sống, lợi mình lợi người”.
.jpg)
Khép lại thời pháp, Trưởng lão HT. Giác Sơn khuyến tấn chư hành giả: “Thiền là ánh sáng của trí huệ, còn định là sức mạnh của chơn tâm. Khi định và huệ song tu, hành giả sẽ thấy rõ mọi hiện tượng đều vô thường, khổ, vô ngã, từ đó vượt lên trên mọi đối đãi được - mất, thành - bại, khen - chê, mà an trú trong pháp giới thanh tịnh. Người tu thiền định phải làm cho tâm mình trong sáng như gương, không dính mắc vào hỷ lạc, không chán ghét khổ đau. Khi ánh sáng trí tuệ chiếu rọi, mọi sự liền tỏ bày và ngay nơi đó chính là Niết-bàn”.
Cuối lời, Trưởng lão Hòa thượng trích đọc đoạn Bát Nhã tâm kinh để khẳng định trí tuệ Bát-nhã là ánh sáng phá tan mọi bóng tối vô minh, đồng thời nhấn mạnh, trí tuệ con người hơn cả mặt trời, vì mặt trời chỉ chiếu được bên ngoài, còn trí tuệ chiếu tận cõi vô biên trong tâm. Do đó, Hòa thượng sách tấn đại chúng nên tu chung để tiếp cận sự linh thiêng, sống trong thiền định như nhiên, an trú trong pháp giới tánh, nơi không còn phân biệt và không còn sợ hãi.
Một số hình ảnh được ghi nhận:
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)