Bầu trời Minh Đăng Quang

Trăng khuya soi bóng câu thơ

Rừng mây bay trắng một bờ hư không.

Cỏ mọc xanh mộ ngoài đồng

Chiến tranh chết chóc còn nồng màu đêm.

 

Thiên di còn bóng mây mềm

Dấu chân Khất sĩ một niềm hân hoan.

Kể từ trăng mọc đầu non

Tổ sư vắng bóng đạo còn ngàn thu.

 

Câu kinh là tiếng mẹ ru

Thương cho đứa bé chân tu xa người.

Mười tháng tuổi mẹ qua đời

Môi khô mùi sữa không lời thốt ra.

 

Phải chăng trong cõi ta bà

Thánh nhân phải chịu khảo tra nghiệp trần.

 

Ru đêm trăng ngủ ngoài sân

Thôi nôi không có mẫu thân gần kề.

Mở trang kinh kệ giác mê

Ngọn đèn "Chơn lý" người về  non cao.

 

Cung trời Đâu Suất năm nào

Vì nhờ con hiếu mẹ vào thiên thai.

Tâm đà mở cõi bồng lai

Khi người vắng bóng Phật đài hiển linh.

 

Hiển linh trong cõi vô hình

Truyền trong tuệ giác của nghìn người tu.

Lúc người trở gót phù hư

Năm mười lăm tuổi trầm tư một mình.

 

Khi đi đến chốn Nam Vang

Bốn năm học đạo nặng mang ơn thầy.

Trở về quê cũ chốn này

Phụ thân ngồi tựa nhìn mây ngoài cồn.

 

Xa xăm vẳng bước chân dồn

Tịch liêu mái ngói hoàng hôn chân trời.

Nghe danh một vị cùng thời

Đức Huỳnh Giáo chủ (1)* ở vùng Thất sơn

 

Phải chăng trời sinh thánh nhơn

Từ đau khổ, lửa căm hờn, hiện ra.

Cũng từ khói lửa nước nhà

Đau thương khắp cõi ta bà chúng sinh.

 

Cửa chùa mây phủ lời kinh

Thương cho bá tánh điêu linh khôn cùng.

Rừng sâu chim chóc rã đàn

Đồng hoang tiếng dế trong hang chiều tà .

 

Nước non rú lạnh tha ma

Dòng mê chảy mãi một màu trăng lu.

Phong sương lấp kín sa mù

Tình xoay hoàn vũ trong cù lao mây.

 

Mọng sương điểm trắng rừng  cây

Du phương Khất sĩ nhìn bầy thiêu thân.

Yêu quê cay đắng nhục thân

Chiều đau chiếc lá ngấn ngần mùi  nhang.

 

Đêm nằm đắp mộng bàng hoàng

Mưa tan phù ảo nhẵn mòn trời xa.

Thấy mây từ xứ Phật-đà

Bay qua quốc độ nhộm tà áo tăng.

 

Thất Sơn một ngọn nhiên đăng

Viễn phương hồng lệ chớp lằn trời Nam.

Vĩnh Long thấp thoáng màu lam

Mùi hương đất dậy trong am kinh cầu.

 

Kim Huê một mối tình đầu

Bể dâu đâu dễ sạch làu mai sau.

Sông quê thương ngọn cỏ lau

Sài Gòn Chợ Lớn còn đau lời thề .

 

Chân người bước lặng đường mê

Đường xưa mây trắng nẻo về hợp  tan.

 

Dang tay ôm cuộc sinh tồn

Lìa mê xác bỏ một hồn héo hon.

Nàng đi  bỏ lại chồng con

Lẻ loi cô độc trên non mộ vàng.

 

Huyễn mộng thời khắc đêm tàn

Kim Huê một đoạn sổ tang ghi rồi.

 

Dương trần tục lụy đã bôi

Đành lòng gửi trả mây trôi về rừng.

Khóe mắt trào lệ rưng rưng

Đưa tay lau sạch chín từng mây trôi.

 

Bảy đêm nhật nguyệt luân hồi

Mũi Nai linh hiển tỉnh rồi nguồn cơn.

Trễ tàu nhìn sóng lênh đênh

Trùng dương tảo mộng nghe hờn trời xanh.

 

Ba năm tu ẩn rừng sâu

Bảy năm thuyết pháp nhiệm mầu Thế Tôn.

Bình bát chứa lệ vô ngôn

Trong mùa tưởng niệm chư tăng nguyện cầu.

 

Giác Nhiên (2)* về lại ban đầu

Sóng mờ vũ trụ  tìm  đâu quê nhà.

 

Tìm màu rêu ố biển dâu

Ngoại phương chấp cánh về đâu hỡi rừng.

Mũi Nai nắng khỏa một vừng

Lệ tan thành khói trên từng vết nhăn.

 

Tìm trên phế tích đồng bằng

Dòng sông sử lịch Minh Đăng áo vàng..

Con thuyền Thiên cổ đưa sang

Thắp một ngọn đuốc vẹt màn tối tăm.

 

Buổi chiều mắt ngó xa xăm

Nhìn mây Thượng cổ về nằm Thất sơn.

 

Đã làm một cuộc Thiên di

Không sờn chí cả Mâu-ni đăng trình.

Buổi đầu chỉ một bóng hình

Linh Sơn Bửu tự U huyền  Pháp hoa.

 

Tháng tư trăng sáng một tòa

" Thuyền Bát-nhã"... Ngài hiền hòa giáo dân.

Mỹ Tho ngày ấy bước chân

Tay ôm bình bát đạo dần mở khai.

 

Xin ăn vào mỗi sớm mai

Khơi mầm chánh pháp Như Lai phổ truyền.

Trở lại Chợ Lớn du thuyền

Mang tên Khất sĩ khắp miền gần xa.

 

Khai sơn Sư Tổ trong ta

Ngọn đèn Chơn lý ngày qua không tàn

Mười năm du hí mộng vàng

Một chiều đứng lặng nhìn trời chim bay

 

Bã Đậu ơi!... buồn điều gì?

Hay tiếng ngựa khóc thiên di bóng người

Núi lửa trong mắt rực cười...

Ngàn năm còn mãi bầu trời Minh Đăng Quang.

 

Chú thích:

(1)*Đức Huỳnh giáo Chủ(1919-1947): Người sáng lập đạo Phật giáo Hòa Hảo

(2)* Thích Giác Nhiên (1923-2015):  Vào sáng ngày 12/03/2011 đức Pháp sư Thích Giác Nhiên từ nước ngoài đã trở về thăm  Mũi Nai - Hà Tiên nơi Tổ ngồi nhập định chứng quả và bắt đầu khai mở giáo pháp Khất sĩ.