Đặc tính thủy trong ứng xử Phật giáo của Tổ sư Minh Đăng Quang

 

5

1. Trong quá trình bản địa hóa Phật giáo ở Việt Nam, từ bình diện lý thuyết cũng như ứng dụng, hiện tượng Tổ sư Minh Đăng Quang và Hệ phái Phật giáo biệt truyền - tông phái Khất sĩ, có một ý nghĩa đặc biệt. Hiển nhiên, hiện tượng này không tách khỏi dòng chảy của văn hóa Việt Nam, nhất là dòng chảy văn hóa Nam Bộ với những nhân vật lập thuyết và sự kiện ra đời các tôn giáo có tính chất dung hợp đầu thế kỷ XX.

Đọc toàn bộ các bài thuyết pháp trong bộ Chơn lý của Tổ sư Minh Đăng Quang, chúng ta có thể thấy, Ngài có nhiều suy nghĩ và hành động có ý nghĩa cách mạng, trong đó đáng chú ý là tinh thần dung hợp và Việt hóa trên nhiều phương diện, nhưng những ý tưởng ấy thường lại được trình bày dưới dạng ngôn từ hàm (implicit), chứ không phải hiển (explicit). Do vậy, về thao tác, phải xâu chuỗi nhiều chi tiết được lặp lại và có tính chất liên văn bản, may ra mới biện giải sáng tỏ được.

Theo tri nhận luận, trong quá trình tương tác với tự nhiên, con người thường dựa vào một bình diện trải nghiệm này để nhận thức một bình diện khác. Thông qua những thuộc tính có tính chất vật chất, cụ thể, hữu hình dễ quan sát của sự vật, hiện tượng này để khám phá ra những đặc tính phi vật chất, trừu tượng, vô hình của sự vật hiện tượng khác, có khi dựa vào đó để xây dựng lý thuyết của mình theo hướng phóng chiếu. Đi theo con đường này, trong phạm vi đang bàn, thông qua hoạt tính của nước, một sự vật cụ thể, để chiêm nghiệm về hệ ứng xử trong lập thuyết Phật giáo và cả đặc tính của một dân tộc. Người ta gọi đó là những trải nghiệm tự nhiên (natural kinds of experience) mà về bản chất là những ẩn dụ.

Có thể nói, Tổ sư Minh Đăng Quang dùng bản thể của nước như những minh họa sinh động trong lập thức của mình là một trường hợp như thế. Sau này, vào năm 1970, Cao Xuân Huy (1900 – 1983), một nhà đạo học, trong quá trình nghiền ngẫm về lịch trình tư tưởng của Việt Nam đã nhận ra: “… cái đặc tính mềm mại, uyển chuyển, linh hoạt, lưu động như nước… Dân tộc ta có tính nước…” và ghi nhận chính khả năng thích ứng và cân bằng là bí quyết sinh tồn của người Việt Nam, đều xuất phát từ cách tiếp cận như thế.

Xuất phát từ các góc độ vừa xác lập, bài viết này thử xem xét đặc tính thủy có vai trò như thế nào trong ứng xử Phật giáo của Tổ sư Minh Đăng Quang và ứng xử Phật giáo ở đây được hiểu là toàn bộ hoạt động liên quan đến Phật pháp từ bình diện giới thuyết cũng như hành động cụ thể của nhà sư.

2. Có nhiều nền văn hóa, nhất là một số nền văn hóa ở châu Á, nước nói rộng ra là sông nước và những thực thể có liên quan đến sông nước, có một ý nghĩa quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần của nhiều dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều bậc trí thức hay thích ngắm nhìn nước, thích luận bàn về lẽ huyền biến trong bản thể của nước. Trong lập luận của mình, Lão Tử hay so sánh tính chất khiêm nhường của con người với nước, rất coi trọng nhu đạo và khiêm nhu đạo… thượng thiện như nước… nước ở chỗ không ai muốn ở… Sông và biển sở dĩ được làm vua của các hang hốc, là vì khéo ở dưới nó… Trong thiên hạ, chẳng cái gì mềm yếu hơn nước, mà không vật gì công phá cái kiên cường hơn được nước. Khổng Tử cũng viết: “Trí giả nhạo thủy”.

Trong các bài thuyết giảng của mình, Tổ sư Minh Đăng Quang nhiều lần bàn đến nước, hoặc trong những ý riêng biệt hoặc trong mối tương quan với các chất khác, nhưng có lẽ tập trung nhất là trong bài Tánh thủy từ trang 269 đến 280 của bộ Chơn lý. Trong đó đáng chú ý là các ý niệm sau: “Nước là đạo, là pháp, nước là thiện, là lành. Nước là sống đời vĩnh viễn, nước ấy là tánh của người quân tử, là tâm của Phật, là thân của trời, là trí của loài người, mà khi xưa các bậc hiền triết muốn cho chúng sanh tập theo tánh nước để ăn ở sống đời, nên đặt tên là nước. Nước là dân, là đạo, đạo là tâm thủy, tánh của nước đó”. Rõ ràng, những chiêm nghiệm này, cần phải tìm hiểu sâu hơn, bởi vì, theo chúng tôi, đây là những căn cứ, những điểm xuất phát cho những hành xử Phật giáo rất tích cực của Tổ sư.

3. Sau đây chúng tôi sẽ đúc kết và phân tích một số ẩn dụ về nước trong lập thức của Tổ sư Minh Đăng Quang.

3.1. Nước và tính thích nghi

Quan sát hoạt động của nước, dù tồn tại bất cứ ở môi trường nào, chúng ta thấy nước rất dễ tính (chữ dùng của cụ Cao Xuân Huy), sẵn sàng thích nghi với vật chứa tự nhiên hay nhân tạo: hồ nước, ruộng nước, ngòi nước… chai nước, gàu nước, chĩnh nước… Thế nhưng, đó không phải là cách ứng xử ba phải, mà chính là cái khả năng thích ứng vô hạn (chữ dùng của Cao Xuân Huy) của nước. Và điều này làm nên sức mạnh vô song của nước và tương ứng với nó là cách ứng xử theo đặc tính thủy của con người khi nắm được lẽ huyền biến của nước.

Tổ sư Minh Đăng Quang viết: “Nước tuy dẻo dai mềm yếu nho nhã nhu hòa chan sớt theo hình lớn nhỏ, mà lại bền bỉ mạnh cứng to lớn nặng nềTuy mềm yếu lỏng nhẹ trôi chảy chiều chuộng như sợ sệt, ai muốn sao theo vậy, cũng như không ta, không tự chủ, không nhứt định, là cái sống của chúng sanh, sống theo nhân duyên, mà như thế mới là một sức mạnh, to lớn, ích lợi bền dài sống mãi”.

3.2. Nước và tính cân bằng

Trong quá trình hòa kết với tự nhiên, không phải ngẫu nhiên mà con người hay nhắc đến bề mặt phẳng lặng của nước. Ngày xưa, người phương Đông hay xem mặt phẳng của nước như một hình mẫu: thước thủy trong xây dựng, tính cân đối trong kiến trúc, tính bền vững niêm luật trong thơ ca… Do vậy, cho dù có thể lúc này lúc khác, một mặt, có thể uốn cong, luồn lách theo mọi ngõ ngách, uyển chuyển theo địa hình, nhưng bao giờ nước cũng vươn tới thế cân bằng. Nói cách khác, cân bằng là thế tồn tại ổn định của nước. Dựa vào đặc điểm này, con người có nhiều khái quát tuyệt diệu về cách hành xử ở đời, cũng như xây dựng những liệu pháp tâm lý trong xã hội công nghiệp.

Vẫn trên nền tảng ấy, nhà Phật còn vươn xa hơn trong việc xác lập tính cân bằng có tính chất hướng nội thuộc về tâm giác, còn theo cách hướng ngoại, đó là cách khai thị theo hướng vô ngôn và như một thể hiện công bằng của tự nhiên. Chơn lý nhìn nhận: “Mặt nước thì bằng phẳng, sáng rỡ và tự nhiên cũng như sự im lặng, chơn như, sự công bình theo đạo lý, như sắc diện sáng rỡ của bậc quân tử trượng phu… Không ai chém giết đánh đập được nước, dầu sau cơn bị động rồi, thì nước vẫn trở lại yên lặng, bằng phẳng như nhiên, như không có chi hề hấn…”.

3.3. Nước và tính cố kết

Có lẽ một trong những đặc tính làm nên sức mạnh của nước là tính cố kết chứ không phân rã và khả năng dung nạp rất lớn của nó, cho nên có thể nói là đặc trưng cố kết trong thế hoàn toàn mở chứ không phải đóng kín. Nói cách khác, cố kết như một động lực để chan hòa và cộng hưởng, có khi chấp nhận tiểu dị để vươn tới đại đồng. Dựa vào cách hình dung vừa phân tích, dân gian Việt Nam coi tất cả chất lỏng trong cơ thể con người đều là nước, ngoại trừ máu và mồ hôi (xem tài liệu tham khảo 9b).

Trở lại, vấn đề đang bàn, Tổ sư Minh Đăng Quang đã sớm nhận ra điều này: “Nước là một chất lỏng chan hòa với tất cả các chất, cũng như sự không xan tham, chan sớt sống chung cùng với chúng sanh” “Nước không có hột phân tách, cũng như lòng sống chung từ bi bác ái, đại đồng, bình đẳng của nhà đạo đức, không chia rẽ phân biệt, ích kỷ riêng tư”.

3.4. Nước và tính thông thoáng, lưu chuyển

Làm nên tính chất mở và cũng gần gũi với sự chan hòa, không chia rẽ, phân biệt như ở (3.5), là tính chất thông thoáng của nước. Nhìn nước xuất phát từ nguồn, vượt qua bao thác ghềnh để về với biển cả, nó không chỉ là đạo, hành trình ấy theo tri nhận quan không khác chi đời người. Đó là cách nhìn có tính trực quan, thật ra sự liên thông của nước hầu như không có vật gì ngăn cản được; khác biệt, cách ngăn chỉ có tính chất tạm thời.

Về điểm này, Tổ sư đã vượt chấp để nhận ra: “Nước thì lưu thông không có chi ngăn bít được… Tuy nước ao này ao kia cách khoảng, nhưng nó cũng có hang mạch thông đồng; cũng như xứ đạo đức bên này, nước quân tử bên kia, tuy ở cách xa, chớ tinh thần lý trí điển lành lúc nào cũng dung hợp làm một, mà không ai ngăn cản được”. Quả nhiên, từ sự lưu chuyển thông thoáng của nước mà nghĩ đến tính chất dung hợp và tương đồng giữa các nét tích cực của những học thuyết, những đức tin rất cách xa về mọi phương diện, chính nhà sư đã cung cấp một cái nhìn rất đáng cho chúng ta suy ngẫm. Phải chăng, khác biệt chỉ là phương tiện mà cái chính là mục đích, mục đích sẽ biến đổi và hoán cải phương tiện? Đúng như thế, chính Tổ sư đã xác nhận: “Dầu nước ao, nước sông, nước rạch, nước nguồn, thảy đổ vào biển cả, bao nhiêu màu sắc đều hóa một màu. Cũng như bao nhiêu tông giáo, giáo phái, chi nhánh, pháp môn của đạo đức, đều gồm có một mục đích là Niết-bàn nhà đạo!”.

3.5. Nước và tính thanh lọc

Trong thế đối lập với đất, Chơn lý đề cập đến tính chất sạch và dơ, trong và đục của sông nước, cũng chính là muốn nói đến cuộc đời và con người.

Chơn lý viết: “Những khi bão tố nước đục dâng lên, tràn vào ao nước trong cao ráo, khi đến đó rồi là ở yên đó và lần hồi phải tự lóng trong, theo như chất nước ao trong… Nước ao trong chảy ra ngoài sông đục, cũng như đào đất moi giếng gặp nước trong, nước trong ấy ai cũng quý giá hoan hô cất giữ… Ví bằng khi nước dơ tràn ngập đến người ta nếu có ích kỷ muốn giữ nước ao trong, thì lấy đất đắp ngăn chận lại, đất ấy tức là vật chất, của cải, tiền tài… Như thế, đạo lý là nước ao trong, cao ráo, nước đục dơ tràn lên là sự sôi nổi của ý tham, tiền của là đất đắp bờ…”.

Dễ thấy, theo cách lập thức của Tổ sư, nước trong, sạch là đạo cần phải theo; nước đục, dơ là lòng tham nên tránh, trong cuộc sống đục và trong, dơ và sạch lẫn lộn nên phải nhờ đến sự thanh lọc của nước; “… dùng pháp lý mà gội rửa thân tâm, gần người tu quân tử thì thân tâm mát nhẹ, trí sáng làu làu”.

Ta hãy suy ngẫm tiếp: “Người ta giặt rửa cái dơ vào trong nước, thì với sự yên lặng, cái dơ lắng xuống đáy, hay cũng có sóng gió là cái dơ ấy bị tạt thải lên bờ. Sự điềm tĩnh của người tu cũng y như vậy, hạ bỏ tất cả phiền não xuống tận đáy lòng, cùng khi nói cùng xô dẹp qua một bên, mà tánh người tu vốn thường trong sạch và yên lặng. Nước dơ thì phải tự rửa nó bằng yên lặng… người tu có dơ tự họ rửa lấy… Ai cũng uống nước mà sống, tắm nước làm sạch…”.

3.6. Nước và tính thanh khiết

Trong văn hóa Việt Nam, trong ba ngày Tết, hay khi cúng quải, trên bàn thờ ngoài hoa quả, bao giờ cũng có một ly hay chén nước trắng tinh khiết. Điều này phần nào cho thấy tính chất biểu trưng về lẽ uyên nguyên của nó trong đời sống tâm linh của người Việt.

Tổ sư Minh Đăng Quang viết: “Nước chỉ một màu sáng trắng, tức là sự thanh bạch của các vị đạo sư… Nước một màu sáng trắng cũng như trí của quân tử chẳng chút si mê… Nước thì trong như lòng không dính lợi của nhà đạo. Vị của nước ngọt, giống lời nói của người hiền. Nước ngọt lòng nhẹ tan chảy có đường, nên kêu là sự nho nhã, nhu hòa nhu đạo”.

3.7. Nước và sự vĩnh hằng

Về bản thể của nước, với cái nhìn của Phật học, nó luôn là sự vĩnh hằng cho dù có sự thay đổi trên bề mặt hiện tượng.

Chơn lý nhiều lần đề cập, xin được trích một vài đoạn: “Nước bao giờ cũng mát, dầu phải bị cơn đốt nấu đi nữa, thì sau khi đó nó cũng mát trở lại tánh cũ… Dầu có ai múc nước uống, đem nước nấu khô, hay là đổ đi đâu thì nước bao giờ cũng trở về với nước… Người quân tử chẳng mất, cũng như nước bao giờ cũng vẫn còn hoài hoài… Nước biển thì bay lên không trung làm mây, mây mưa rưới lại sông ngòi, sông ngòi đổ tuôn về biển, phận việc xoay tròn như thế nên nước biển vẫn mãi một mực, không cao thấp…”.

3.8. Nước và người học đạo

Khi đi tìm đặc điểm của nước, về mặt biểu đạt, Tổ sư Minh Đăng Quang có khi trình bày như một vấn đề tách biệt ít nhiều có tính chất tự nhiên như bản chất vốn có của nó, nhưng cũng có khi đặt những trải nghiệm về nước gắn liền với người học đạo mà Tổ sư hay dùng là người quân tử, người học đạo. Như đã nói, từ góc độ của tri nhận luận, nước ở đây được dùng như một miền nguồn với những đặc tính cụ thể, người lập thức lấy đó làm căn cứ để phóng chiếu về những suy tưởng có tính chất trừu tượng. Cho nên, trong lập thức của mình, có khi dưới hình thức trực tiếp, có khi dưới hình thức gián tiếp, Tổ sư hay dẫn giải theo hướng liên hệ đến các cách ứng xử của con nhà Phật.

Khi liên hệ đến bản tính mát của nước, Tổ sư biện giải: “Cũng như người quân tử không bao giờ sân giận, dầu phải bị ai gây gổ khêu chọc, thì cái nóng ấy cũng chỉ trong giây lát mà thôi. Vì bởi người đã quen tánh mát, tánh mát đã tự nhiên, để tự nhiên là nó mát lấy nó”. Cũng trong chiều hướng đó, có thể tìm thấy mối liên hệ về một số thuộc tính của nước và bản thể Phật mà con người cố gắng để đạt đến, chẳng hạn như (i) tính vĩnh hằng của nước và lòng đạo: “... người đạo dầu bị ai cám dỗ bắt đi đâu, dầu cho lợi danh ràng buộc thì lòng đạo bao giờ cũng trở về với đạo, chẳng trở lại bằng xác thịt được thì khi chết đi, linh hồn cũng trở về sanh nơi xứ đạo của mình”, (ii) tính chất thanh lọc của nước và bổn phận của người tu: “Phận sự của người tu là phải tế độ sàng lọc các pháp của chúng sanh, phải y như vậy, mới gọi là con rồng ở trong biển, phún mưa giúp đỡ thiên hạ”. Bao trùm lên tất cả là thông điệp mà Tổ sư muốn gửi đến cho người học đạo là phải luôn trau dồi tâm thủy, học tập đạo thủy để mà tu tâm, hành đạo: “… trau dồi tâm thủy, tập tánh quen như nước… Nước là quân tử là Phật, mà các bậc đại hiền muốn cho tất cả đều tu và chỉ đạo cho ngó thấy, lấy nước mà so sánh dễ hiểu, mong cho cõi đời trở nên xứ Phật, xứ đạo đức, xứ hiền lương, chớ nào có bảo việc hơn thua tranh lợi”.

4. Từ những phân tích ở (3), có thể thấy Tổ sư Minh Đăng Quang thông qua những thể nghiệm của chính Ngài, dùng những hiểu biết của chính mình về thế giới, cụ thể là sông nước và những thực thể liên quan đến sông nước như là một đối tượng nghiền ngẫm, cộng với những kinh pháp mà Ngài học hỏi, tiếp xúc, từ đó hình thành nên những cách ứng xử của mình. Nói ứng xử Phật giáo là cách nói khiêm nhường của con nhà Phật chứ theo chúng tôi, Tổ sư rất có ý thức trong lập thuyết và trên cơ sở kế thừa các cách biện giải của các nhà tư tưởng tiền bối trong và ngoài Phật giáo, bước đầu Ngài đã xây dựng cho mình một hệ suy nghĩ có tính hệ thống, nhất quán và triệt để hơn về đặc tính thủy. Hơn thế nữa, toàn bộ những trải nghiệm về nước được Tổ sư Minh Đăng Quang tập trung vận dụng để giải quyết những vấn đề Phật học ở một thời điểm cụ thể, trên một địa bàn cụ thể, mà kết quả là sự ra đời của Hệ phái Khất sĩ chỉ có ở Việt Nam, với những chủ thuyết khác biệt, vừa dung hòa, vừa cấp tiến trên con đường hoằng pháp đưa tư tưởng Phật giáo đến với đời sống. Nói không quá, tất cả đều có căn nguyên từ nước, bắt nguồn từ cách mô phỏng đặc tính của nước.

Về mặt lý thuyết, vẫn là dấu ấn trong tri nhận văn hóa của người Việt xuất phát từ ba nguyên lý tri nhận: “Sông nước là thực thể gần gũi nhất nên xuất hiện trước nhất, sông nước là thực thể gần gũi nhất nên xuất hiện nhiều nhất, sông nước là thực thể gần gũi nhất nên có tầm tác động lớn nhất”. Nói cụ thể, có thể kể ra các ẩn dụ bậc trên đã hằn sâu trong trí óc của người Việt, kiểu như: “Cuộc đời là dòng sông, đời người là dòng sông, hành trình đời người là hành trình của dòng sông, ứng xử của con người là sự vận động của nước…”. Trên cơ sở này Tổ sư đã xây dựng nên các ẩn dụ: “Nước là con người, hoạt động của nước là hành trình ứng xử Phật pháp”, và có ý nghĩa bao trùm là ẩn dụ tri nhận: “Tánh thủy là tánh Phật…”.

Về mặt ứng xử thực tiễn, Du tăng Khất sĩ khất thực, sự cân bằng giữa nhận và cho, khất thực là cách thực hành tu luyện, sống chung tu học, tụng niệm, giảng giải bằng tiếng Việt, thậm chí tiếng Việt ở Nam Bộ… là những sự vận dụng cụ thể từ đặc tính Thủy.

5. Phần trên là những phân tích có tính trừu xuất, có tính thao tác về một số ẩn dụ ý niệm liên quan đến đặc tính Thủy, xuất phát điểm của những ứng xử Phật giáo của Tổ sư Minh Đăng Quang. Thật ra, trong cách lập thức của mình trong khá nhiều trường hợp, Tổ sư ít khi xem xét nước trong trạng thái cô lập và tĩnh tại mà thường đặt nó trong mối quan hệ với các yếu tố khác, trong các hệ thống khác. Chẳng hạn, Ngài dạy: Hiểu nước là để hiểu đất, và đặng hiểu luôn cả lửa và gió. Hiển nhiên, để tránh cái nhìn phiến diện, việc đặt nguyên ủy nước trong mối quan hệ trước hết với các chất khác như phương pháp thuyết giảng của Tổ sư, thứ đến như một xuất phát điểm từ miền nguồn trong phóng chiếu lên miền đích với những ý tưởng mô phỏng, là một việc làm cần thiết. Hẳn từ góc nhìn này, cứ liệu sẽ cung cấp nhiều hiểu biết đầy đủ hơn và toàn diện hơn về tư tưởng của Tổ sư nói chung, quan niệm về tính Thủy nói riêng.

PGS.TS. Trịnh Sâm
Ban Phật học chùa Xá Lợi

***

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, Nxb. Văn học.

2. Fauconnier G. Turner M. (2002), The Way We Think: Conceptual Intergration and the Mind' s Hidden Complexities, New York.

3. Tổ sư Minh Đăng Quang, Chơn lý, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh, 1993.

4. Hệ phái Khất sĩ (2008), Ánh Minh Quang, Nxb. TP. HCM.

5. Hàn Ôn (2001), Minh Đăng Quang pháp giáo, Chúng Minh Đăng Quang tái bản

6. Hòa thượng Pháp sư Giác Nhiên (1971), “Lời giới thiệu” trong Chơn lý, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh, 1993.

7. Lakoff, G. Johnson, M. (1980, 2003), Metaphors We Live by, Chicago, University of Chicago Press.

8. Tỳ-kheo Thích Giác Toàn (1993), Lời cẩn bạch, trong Chơn lý, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh.

9. Trịnh Sâm:

            - 2011a, “Dòng sông và cuộc đời”, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 10.

            - 2011b, “Miền ý niệm sông nước trong tri nhận của người Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 12.

            - 2013a, “Lạm bàn về chữ thủy trong văn hóa Việt”, Báo Văn hóa, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, số Xuân Quý Tỵ.

            - 2013b, “Miền ý niệm sông nước trong tri nhận của người Nam Bộ”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, số 46.