Giới luật khất sĩ

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Kính bạch chư Tôn đức Tăng-già hiện tọa đạo tràng,

Kính thưa Chủ tọa đoàn cùng toàn thể liệt quý vị,

Trong hội thảo Hệ phái Khất sĩ: Quá trình hình thành, phát triển và hội nhập, do Viện Nghiên cứu Tôn giáo, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam và Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, chúng tôi là Khất sĩ Minh Bình xin được trình bày một tham luận với đề tài Giới luật Khất sĩ. Thiết nghĩ đây là một đề tài có tính xã hội cao, trình bày về mảng đời sống tôn giáo, gián tiếp đề cập đến những phương cách tổ chức của các Tăng đoàn Phật giáo trong suốt gần 2600 năm qua, trọng tâm là thuyết minh về hệ thống giới luật của Đạo Phật Khất Sĩ do Đức Tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng. Do vậy, chúng tôi sẽ cố gắng làm việc một cách khoa học nhất để làm sáng tỏ đề tài.

Hthao 2

Sau đây là những phần nội dung chính của bài tham luận:

1. Đôi nét về Giới luật Khất sĩ

Giới luật Khất sĩ hay Luật Khất sĩ là những phần quy định về tư cách cá nhân, về đời sống, sự sinh hoạt, cách tổ chức… của các thành viên và các Tăng đoàn Phật giáo Khất sĩ. Giới là những điều cấm, điều răn cho cá nhân. Luật là những phép tắc luật lệ của tổ chức. Pháp là hệ thống, là cơ sở, là những quy định và thực tiễn, là tổng quát mọi điều về giới luật Phật giáo… Còn Khất sĩ là tên riêng của hệ thống pháp luật này, lấy theo tên của Đạo Phật Khất Sĩ do Tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập tại Việt Nam vào giữa thập niên 1940. Qua hơn 60 năm hình thành và phát triển, Phật giáo Khất sĩ đã thiết lập nên một hệ thống giới luật biệt truyền, được xây dựng trên nền tảng là Thích-ca Chánh pháp. Hệ thống đó đã giúp chư Tăng Ni Khất sĩ và Phật tử ổn định đời sống, thành tựu những tâm đức cao thượng và thăng hoa về trí tuệ… Với phương pháp liệt kê và nêu sơ lược những ý trọng tâm, bài viết này sẽ được trình bày như một bài đại cương về Giới luật Khất sĩ, tạo cơ sở cho những bài nghiên cứu khác sau này.

Nguồn Giới luật Khất sĩ do Đức Tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng. Sức sống mạnh mẽ của nó trong hơn 60 năm qua đã chứng tỏ được rằng nó là một nguồn mạch dồi dào, thích hợp với mọi căn cơ và bẩm tánh của chúng sanh. Chính hệ thống Giới luật Khất sĩ đã khẳng định được rằng Phật giáo Khất sĩ là một nền Phật giáo độc lập trong ý nghĩa là một hệ phái biệt truyền, được kiến thiết vững chắc và do vậy sẽ đứng vững được trước nhân duyên nghiệp lực của chúng sanh.

Giới luật Khất sĩ đã được Tổ sư Minh Đăng Quang ban hành qua các quyển Chơn lý. Đến năm 1972, các quyển này được Thượng tọa Pháp sư Giác Nhiên, Tổng Trị sự trưởng Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam, gom thành quyển Luật nghi Khất sĩ và được Giáo hội ấn hành phổ biến. Quyển này có 10 chương, trong đó có 8 chương nói về giới luật:

Chương 1: Bài học Khất sĩ, Chơn lý 18

Chương 2: Luật Khất sĩ, Chơn lý 11

Chương 3: Bài học Sa-di, Chơn lý 65

Chương 4: Pháp học Sa-di I – Giới, Chơn lý 67

Chương 7: Giới bổn Tăng, Chơn lý 14

Chương 8: Giới bổn Ni, Chơn lý 15

Chương 9: Giới Phật tử, Chơn lý 55

Chương 10:114 điều Luật nghi Khất sĩ

Còn 2 chương, chương 5 là Pháp học Sa-di II - Định (Chơn lý 68) và chương 6 là Pháp học Sa-di III - Huệ (Chơn lý 69). Hai chương này đã được đưa vào quyển Luật nghi Khất sĩ ngay từ đầu bởi vì chúng cũng có tính cách là những pháp học căn bản, cần gom chung một quyển cho chư Khất sĩ dễ mang theo sử dụng trong những khi du phương hành đạo. Chương 114 điều Luật nghi Khất sĩ có tính cách là các thanh quy do Tổ sư Minh Đăng Quang đã ban hành thêm để mọi người áp dụng.

Về tên quyển Luật nghi Khất sĩ này đã được sử dụng phổ biến, không cần phải nói thêm. Nhưng có điều là nội dung của quyển này lớn hơn tên của nó. Một là quyển này có hai chương nói về định và huệ, hai là có một chương giới Phật tử. Giới Phật tử như đã biết là bao hàm 3 nội dung Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới và Nhiêu ích hữu tình giới. Vậy khi vẫn dùng tên Luật nghi Khất sĩ thì nên hiểu nó ở nghĩa rộng, rằng đây là luật nghi của tất cả các vị Khất sĩ phàm Thánh, gồm hàng phàm Tăng và các Thánh vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Duyên Giác, Bồ-tát mà Phật giáo Khất sĩ đã triển khai. Trong 7 đạo quả, ngoài 6 Thánh quả trên là quả Như Lai, bậc Vô thượng sĩ. Như vậy những loại nhận thức cho rằng Khất sĩ chỉ là Nhơn thừa, thiết nghĩ là nên được điều chỉnh để đạt được mức độ công tâm cao hơn.

Giới luật Khất sĩ là công truyền chứ không phải là bí truyền. Hình mạo ban đầu của Giới luật Khất sĩ là các quyển Chơn lý và được ấn tống phổ biến cho Tăng Ni, Phật tử sử dụng. Đối với các Sa-di, Phật giáo Khất sĩ từ lâu đã quy định các vị ấy phải học thuộc lòng Giới bổn rồi mới được thọ giới Tỳ-kheo… Tinh thần công truyền của Giới luật Khất sĩ đã thể hiện sự khách quan và trong sáng của hệ thống giới luật này.

Giới luật Khất sĩ được biên tập bằng tiếng Việt chứ không dùng tiếng Hán, tiếng Pali hay tiếng Sanskrit, tiếng Tây Tạng, 4 ngôn ngữ cổ của Phật giáo thế giới. Khi biên tập bằng tiếng Việt, có những danh từ được dùng rất khéo như y thượng, y trung, y hạ, bình bát đất, áo giới, nhà Tam Bảo (nhà thờ Phật, nhà thuyết pháp, nhà Tăng ở)… Đây là một ưu điểm của Giới luật Khất sĩ, thể hiện sự tích cực và tiến bộ. Trong tương lai, Giới luật Khất sĩ rất có khả năng sẽ được dịch sang các tiếng Anh, Pháp, hay các ngôn ngữ khác thích hợp cho mọi người sử dụng…

Giới luật Khất sĩ có phần ngắn gọn, những gì Tổ sư Minh Đăng Quang đã biên tập và ban hành chỉ có 8 chương, dài khoảng 200 trang sách khổ trung bình. Như Giới bổn Tăng Khất sĩ và Giới bổn Ni Khất sĩ đã nêu lên những giới điều rất cụ thể, nội dung đầy đủ mà mỗi Giới bổn chỉ dài hơn 20 trang sách; hay phần nghi thức cúng Ngọ ngắn gọn mà sinh động, các bài kệ rất sâu sắc… Khi xem 6 bộ quảng luật của Phật giáo thế giới, những bộ được biên tập từ cách đây hơn 2300 năm, ta nhận thấy là chúng hơi “cổ” trong cách trình bày. Ngày nay, ta thấy các “tên giới” như người xưa biên tập thật ra là nội dung chính của các giới điều, còn “nội dung giới” như người xưa sắp xếp thật ra là những phần diễn giải. Phần diễn giải nên sắp riêng cho người học luật dễ theo dõi.

Nét sáng tạo của Giới luật Khất sĩ có thể thấy qua sự cách tân bộ tam y Khất sĩ và bộ tam y nữ Khất sĩ: thấy chúng vẫn như xưa mà xem ra thật là áo giải thoát hiện đại. Hay mô hình tịnh xá bát giác với cổ lầu tứ giác bên trên có hai tầng mái xòe ra các hướng trông như một tòa sen lớn đang nở giữa biển đời. Hay bảo tháp thờ Phật được đặt ngay giữa chánh điện, để mọi người quây quần xung quanh như thời Đức Phật còn tại thế. Cách thờ tự này có ưu điểm làm làm cho các mảng tối chung quanh đức Phật gần như là triệt tiêu, độ trong sáng minh nhiên được tăng cao. Nguồn ánh sáng phân bổ gần như đều đặn khắp nơi. Hay bình bát đất có đáy bằng nên không cần thêm một phụ tùng là cái kiềng đỡ bát… Giới luật là đời sống, mà đời sống thì cứ đi tới. Qua nhiều quốc độ và nhiều thời đại khác nhau, Phật giáo đã phải thích ứng bằng những sáng tạo cần thiết. Về khía cạnh này, Phật giáo Khất sĩ đã rất khéo léo, do đó vẫn giữ được truyền thống y bát như thời Phật Tăng xưa mà vẫn phù hợp với thời duyên hiện đại.

Giới luật Khất sĩ được trình bày rõ ràng. Tám chương do Tổ sư Minh Đăng Quang ban hành chính là phần căn bản của Giới luật Khất sĩ (tập 1). Ngoài phần này dĩ nhiên còn phải thêm phần chú giải (tập 2) và thêm phần bổ sung (tập 3) là cập nhật những quy định của Phật giáo Khất sĩ qua các thời đại. Ba tập này cũng vừa phải cho một bộ Quảng luật, không thiếu sót mà cũng không rườm rà, phiền phức. Sự rõ ràng của Giới luật Khất sĩ còn được thể hiện trong khâu dịch thuật, như phần dẫn nhập và phần Kệ giới của 7 Đức Phật trong các Giới bổn đã được chuyển dịch thành văn xuôi dễ hiểu, các đoạn bị trùng ý trong Môn oai nghi của Sa-di và Sa-di-ni được lược bớt, các câu chú âm Hán - Phạn được thay bằng một chữ “Như” đầu mỗi bài kệ chú nguyện, những từ ngữ và ý tứ cho rằng các giới pháp của hàng Phật tử xuất gia là nhỏ mọn, phi pháp, tà kiến đều được lược bỏ trong Giới Phật tử. Kinh luật khi qua tay người có huệ nhãn trở nên rõ nghĩa, còn không thì ngược lại. Nói chung, Tổ sư Minh Đăng Quang đã biên tập Giới luật Khất sĩ rất hợp lý.

Đoạn cuối của Giới bổn Tăng Khất sĩ và Giới bổn Ni Khất sĩ có nội dung như thế này: Giới bổn này tất cả Khất sĩ đều dùng được hết. Luật Tăng đồ nhà Phật này của phái Đàm Vô Đức bộ, do Đại sư Đàm-đế dịch năm 254 sau Dương lịch.

Qua đoạn này, ta biết được Giới bổn Tăng Khất sĩ và Giới bổn Ni Khất sĩ được căn cứ vào một hệ thống Tứ Phần luật có trước hệ thống Tứ Phần luật do hai ngài Phật-đà-da-xá và Trúc Phật Niệm dịch ra Hán ngữ khoảng 200 năm.

Trong sách Lịch sử Phật giáo Trung Quốc của Hòa thượng Thanh Kiểm, đoạn khái thuyết về Phật giáo thời nhà Ngụy (220 - 265, nhà Tiền Ngụy, do Tào Tháo thành lập vào đầu thời Tam Quốc) đã có nhắc đến đại sư Đàm-đế như sau:

Sau hai năm, (254 TL) lại có ngài Đàm-đế (Dharmatrata) tới, và phiên dịch bộ “Đàm-vô-đức Yết-ma”, cách tác pháp thụ giới.

Các vị Phạm Tăng tới nước Ngụy phiên dịch kinh điển, đặc biệt có hai ngài Đàm-ma-ca-la và Đàm-đế đã dịch về giới luật, là những vị truyền bá giới luật đầu tiên ở Trung Quốc, rất có ảnh hưởng lớn đến hậu thế.

Ngài Đàm-ma-ca-la đến Trung Quốc năm 250 (năm Gia Bình thứ 2) và đã dịch Tăng-kỳ Giới Bổn (218 giới), dĩ nhiên Giới bổn này không phải của phái Đàm-vô-đức. Ngài Đàm-đế dịch một quyển Yết-ma, quyển này tương truyền đương thời đã dùng để tác pháp cho người Trung Quốc xuất gia, thọ giới... Khi dùng Đàm-vô-đức Yết-ma để tác pháp thọ giới, thì sách này phải có Giới bổn, vì đâu thể dùng Tăng-kỳ Giới Bổn là của phái khác. Và Tổ sư Minh Đăng Quang đã cho biết các Giới bổn do Ngài biên tập và phổ biến cho Tăng Ni Khất sĩ sử dụng là do đại sư Đàm-đế phiên dịch ra Hán ngữ vào năm 254. Chúng ta hãy ghi nhận điều đó.

Còn 4 chữ “tất cả Khất sĩ” là chỉ hết các hạng Khất sĩ Thanh Văn, Khất sĩ Duyên Giác và Khất sĩ Bồ-tát, mỗi hạng Khất sĩ đều có 10 địa (xem Tam thập địa trong Pháp học Sa-di III – Huệ). Chẳng phải vô cớ mà giới pháp của chư Tỳ-kheo được Đức Phật gọi là Giới bổn, Giới gốc. Ngày xưa, Đức Lục tổ Huệ Năng đã lên Tổ vị rồi, thọ nhận y bát và tâm ấn của chư Phật đã 16 năm rồi, mà vẫn xuất gia và thọ giới Tỳ-kheo trước khi ra hoằng pháp đốn giáo thượng thừa. Hay như Đức Tổ sư Minh Đăng Quang cũng đã đắc đạo ở bờ biển Mũi Nai rồi, sau về làng Phú Mỹ vẫn cầu thọ và nghiêm trì giới Tỳ-kheo rồi mới lập Đạo Phật Khất Sĩ. Bậc đắc đạo dĩ nhiên đã thành tựu giới thể vô nhiễm, các Ngài vẫn cầu thọ giới pháp của chư Phật để làm gì? Thế nên 4 chữ “tất cả Khất sĩ” không phải đơn giản, đây là Tổ sư Minh Đăng Quang đã khéo phá bỏ sự chống báng của 3 thừa, dung hòa vào một nguồn Thích-ca Chánh pháp như chơn lý, khẳng định “thừa” là trình độ tâm trí chứ không phải là giai cấp. Phật pháp thuần một đạo vị giải thoát, tuy hàng Phật tử có nhiều trình độ khác nhau nhưng không vì thế mà xung đột như kẻ thế tục.

Tóm lại, Giới luật Khất sĩ đã căn cứ vào Luật Tứ Phần do Đại sư Đàm-đế dịch (các phần Giới bổn), vào Kinh Hoa Nghiêm (những câu chú nguyện mẫu), Kinh Phạm Võng (Giới Phật tử), Kinh A-hàm (Kệ pháp của 7 Đức Phật), những phần do Đại sư Liên Trì tổng hợp (môn oai nghi Sa-di và 10 giới nghĩa), những phần khác do học giả Đoàn Trung Còn phiên dịch ra tiếng Việt và thật tế cuộc sống của Tăng Ni, Phật tử trong những hoàn cảnh xã hội. Tổ sư Minh Đăng Quang đã sử dụng nhiều nguồn để biên tập nên Giới luật Khất sĩ như vậy. Trong thời gian tu hành và hoằng pháp chỉ khoảng 10 năm (1944 – 1954), Tổ sư Minh Đăng Quang làm sao có thể làm được nhiều việc như thế? Thế mới hay là cái biết của chư Tổ sư đâu phải như người thường, các Ngài chẳng cần học từng quyển sách, lục tìm từng tài liệu! Diệu dụng của Bát-nhã Ba-la-mật thật bất khả tư nghì! Công đức khai sơn lập đạo của Tổ sư Minh Đăng Quang thật bất khả tư nghì! Và Giới luật Khất sĩ cũng thật bất khả tư nghì!

2. Sơ lược nội dung

2.1. Giới pháp cư sĩ: gồm 5 giới và 8 giới, dành cho những người đã quy y Tam Bảo, sống cuộc sống gia đình, có những trách nhiệm thế tục và làm ngoại hộ cho Phật giáo.

- Giới cư sĩ: là căn bản của mọi luật nghi của Phật giáo, cũng là các bậc thang tất yếu để đi lên cõi người, cõi trời trong hiện tại và trong tương lai. 5 giới cư sĩ của Phật giáo Khất sĩ tương đương 10 thiện nghiệp:

1. Cấm sát sanh.

2. Cấm trộm cắp.

3. Cấm tà hạnh.

4. Cấm nói dối, khoe khoang, đâm thọc, rủa chửi.

5. Cấm uống rượu, tham lam, sân giận, si mê.

- 8 giới cư sĩ: dành cho những người tập xuất gia một ngày đêm, tu Bát Quan Trai, nên 8 giới này chỉ thọ một ngày, ngày nào muốn tu lại cầu thọ 8 giới.

1. Cấm sát sanh.

2. Cấm trộm cắp.

3. Cấm dâm dục.

4. Cấm nói dối, khoe khoang, đâm thọc, rủa chửi.

5. Cấm uống rượu, tham lam, sân giận, si mê.

6. Cấm trang điểm phấn son, áo quần hàng lụa tươi tốt, và nghe xem hát múa đờn kèn, yến tiệc vui đông.

7. Cấm ngồi ghế cao, nằm giường rộng, chiếu lớn xinh đẹp.

8. Cấm ăn sái giờ từ quá ngọ đến ngọ mai (ăn chay).

2.2. Giới pháp Sa-di và Sa-di-ni: gồm 10 giới – 4 y pháp, mặc bộ tam y, dùng bình bát đất, xuất gia làm con trò của chư Khất sĩ, tập hạnh Khất sĩ để trở thành bậc Khất sĩ chân chính sau này. Giới pháp Sa-di và Sa-di-ni có 10 giới:

1. Cấm sát sanh.

2. Cấm trộm cắp.

3. Cấm dâm dục.

4. Cấm nói dối, khoe khoang, đâm thọc, rủa chửi.

5. Cấm uống rượu, tham lam, sân giận, si mê.

6. Cấm trang điểm phấn son, áo quần hàng lụa tươi tốt.

7. Cấm nghe xem hát múa đờn kèn, yến tiệc vui đông.

8. Cấm ngồi ghế cao, nằm giường rộng, chiếu lớn xinh đẹp.

9. Cấm ăn sái giờ từ quá ngọ đến ngọ mai (ăn chay).

10. Cấm rớ đến tiền bạc vàng, của quý, đồ trang sức.

Bốn y pháp:

1. Nhà sư khất thực phải lượm những vải bỏ mà đâu lại thành áo, nhưng có ai cúng vải, đồ cũ thì được nhận.

2. Nhà sư khất thực chỉ ăn đồ xin mà thôi, nhưng ngày hội, thuyết pháp, đọc Giới bổn, được ăn tại chùa.

3. Nhà sư khất thực phải nghỉ dưới cội cây, nhưng có ai cúng lều, am nhỏ bằng lá một cửa thì được ở.

4. Nhà sư khất thực chỉ dùng phân uế của bò mà làm thuốc trong khi đau, nhưng có ai cúng thuốc, dầu, đường thì được dùng.

2.3. Chúng Thức-xoa-ma-na: Thức-xoa-ma-na là một chúng đệ tử Phật. Tình hình các chúng đệ tử Phật được thành lập đại khái là như sau: Đầu tiên, những người nam theo Phật xuất gia đều liền được cho làm Tỳ-kheo, số lượng lên đến hàng ngàn người. Sau vài năm thành đạo, Đức Phật về thăm cố quốc và đã dẫn La-hầu-la theo cho đi tu. Khi ấy, La-hầu-la chỉ là một thiếu nhi 9 tuổi, nên Phật bảo ngài Xá-lợi-phất thâu nhận chú làm vị Sa-di đầu tiên trong Phật giáo. Sau khi vua Tịnh Phạn mất, bà di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề cùng nhóm 500 người nữ dòng họ Thích-ca đã đến gặp Phật năn nỉ xin được xuất gia. Đức Phật đã đặt ra 8 điều kiện để thâu nhận họ, trở thành chúng Tỳ-kheo-ni đệ tử Phật. Theo chân các Tỳ-kheo-ni này, sau đó đã có nhiều nữ nhân xuất gia làm Tỳ-kheo-ni trong giáo pháp của Phật. Kế tiếp, ngài Mục-kiền-liên độ cho 17 chú thiếu niên xuất gia. 17 chú này lớn hơn La-hầu-la và đã được Đức Phật cho làm Tỳ-kheo. Các chú ấy không chịu đựng được đời sống Bốn y pháp của Tăng đoàn, khi đêm hay kêu khóc vì đói nên Đức Phật đã quy định người nam phải từ 20 tuổi trở lên mới được làm Tỳ-kheo, dưới tuổi đó phải làm Sa-di. Đến đây, chúng Thức-xoa-ma-na xuất hiện.

Thức-xoa-ma-na (Siksamana) có nghĩa là Học pháp nữ, Chánh học nữ. Duyên khởi của pháp này là thuở Phật còn tại thế, đã có một cô gái đi xuất gia với các Sư cô rồi được thọ giới Tỳ-kheo-ni mà chính cô và mọi người đều không biết là cô đang có thai. Khoảng 3, 4 tháng sau, bào thai trong bụng cô lớn lên, làm cho người đời dị nghị về phẩm hạnh của chư Ni đệ tử Phật. Đức Phật đã nhờ bà Vi-sa-kha khám nghiệm và minh oan cho cô trước đại chúng. Sau đó, Đức Phật đã quy định không nên cho người nữ vừa xuất gia liền được thọ giới Tỳ-kheo-ni, mà phải có một giai đoạn học pháp nhất định cho họ.

Điều luật này đã được áp dụng chung cho mọi người nữ mới xuất gia thời đó: các thiếu nữ đã từng có chồng, các thanh nữ 18 tuổi trở lên và mọi phụ nữ đều phải trải qua giai đoạn học pháp trước khi thọ giới Tỳ-kheo-ni. Với tục lệ tảo hôn cổ truyền của người Ấn, vào thời Đức Phật đã có nhiều cô bé mới 10 tuổi đã có chồng, hình thành một hạng người nữ đặc biệt trong xã hội. Các thiếu nữ đã từng có chồng và hai hạng người nữ kia là ba hạng nữ nhân đã được Tăng đoàn ghi nhận là có thể làm Tỳ-kheo-ni, nhưng vì sinh lý của người nữ mà họ phải cần thêm thời gian, để ni đoàn được thanh khiết.

Như vậy, ban đầu Thức-xoa-ma-na chính là quãng thời gian cần thiết để xác định duyên nghiệp của một người nữ mới xuất gia, nhằm xem người đó đã có thai hay không, trước khi cho thọ giới Tỳ-kheo-ni. Giai đoạn cần thiết này là cho những người nữ đi xuất gia mà không qua giai đoạn làm Sa-di-ni (có lẽ lúc đó chưa có Sa-di-ni). Như nay trong Phật giáo, các người nữ đều phải xuất gia khoảng 1 năm mới được thọ giới Sa-di-ni, rồi thêm thời gian làm Sa-di-ni nữa, thì việc các cô ấy có thai hay không đã xác định được.

Pháp kính trọng thứ tư của các nữ Khất sĩ có nội dung như sau: “4. Ni cô tập sự hai năm, nếu muốn vào hàng xuất gia thiệt thọ phải có Giáo hội chư Tăng chứng nhận”. Ở đây, “hàng xuất gia thiệt thọ” chính là hàng Tỳ-kheo-ni, hàng nữ Khất sĩ, hàng Ni cô; còn “Ni cô tập sự” là chỉ những người đang tập làm Tỳ-kheo-ni. Ni cô tập sự là Sa-di-ni hay là Thức-xoa-ma-na? Nghi vấn này cũng nên được tìm hiểu.

Giới pháp Thức-xoa-ma-na không được Tổ sư Minh Đăng Quang đề cập đến trong bộ Chơn lý. Và trong truyền thống của Phật giáo Khất sĩ, giai đoạn Thức-xoa-ma-na của chư Ni chỉ có sự chứng minh chứ không có sự trao truyền, bởi vì không có giới Thức-xoa-ma-na nhất định để truyền. Khi đó, căn bản là các Ni cô tập sự được phép tập giữ Giới bổn Ni chứ không có gì khác, hoặc là được học tập thêm những oai nghi tế hạnh và những bài vở mà tùy mỗi Giáo đoàn quy định, mục đích để huân tu thêm phước đức trí tuệ, chuẩn bị tư lương cho họ tiến lên phẩm vị Tỳ-kheo-ni. Điều này cho thấy Thức-xoa-ma-na quả là Học pháp nữ, họ được định vị là một chúng đệ tử Phật, với năng lực hơn các Sa-di-ni mà chưa đủ phước đức để làm Tỳ-kheo-ni. Trong Giới luật học cương yếu, Hòa thượng Thánh Nghiêm cũng đã khẳng định là các Thức-xoa-ma-na chỉ có sự biệt giáo chứ không có giới thể để đắc. Ngài cũng đã trích dẫn sách Nghiệp sớ như sau: “Học pháp nữ này không có giới luật, chỉ thọ biệt giáo thứ bậc hơn Sa-di-ni” (tr. 283a). Hai từ “biệt giáo” dùng ở đây rất chính xác.

Thời Đức Phật tại thế, chúng Thức-xoa-ma-na đã được hình thành như vậy. Về sau, các Tăng đoàn đã quy định mọi nam nhân mới xuất gia đều phải trải qua giai đoạn làm Sa-di. Dĩ nhiên quy định này của Tăng đoàn là ứng với hạnh nghiệp của chúng sanh. Xét những vị nam tử lớn tuổi khi đi xuất gia vẫn phải làm Sa-di, họ có năng lực hơn các Sa-di mà chưa đủ phước đức để làm Tỳ-kheo, do vậy họ đã hình thành nên một chúng mà Luật tạng gọi là Danh tự Sa-di. Với chúng này, dĩ nhiên Tăng đoàn đã có ghi nhận những năng lực của họ và cũng có tạo những điều kiện thích hợp cho họ (ví dụ khi cần thì Giáo hội cũng cho các Sa-di lớn tuổi đi trụ trì…), nhưng không vì thế mà hình thành nên một giới pháp riêng cho chúng Danh tự Sa-di. Điều này được trình bày ở đây là để liên hệ đến trường hợp các Thức-xoa-ma-na. Và nếu chúng Danh tự Sa-di được hình thành trong thời Đức Phật, thì có phải Phật giáo đã có 8 chúng hay không?

Chư Ni cô đệ tử Phật là những vị được sinh ra và lớn lên với những biệt nghiệp của nữ giới. Để giúp cho nghiệp duyên các vị ấy được thuyên giảm, phước đức tăng trưởng, đủ năng lực đảm đương thọ mạng Phật pháp, thừa Như Lai sự, tác Như Lai sứ, các bậc thầy đã dày công rèn luyện cho các cô như vậy. Ngày xưa, Đức Phật đã chế pháp Thức-xoa-ma-na cho các người nữ xuất gia mà không cần phải qua giai đoạn làm Sa-di-ni, pháp này không có giới thể. Đây là một sự thật tế nhị và có đạo lý chân chính, chúng ta hãy ghi nhận như vậy.

2.4. Giới pháp Tỳ-kheo-ni: Gồm Bốn y pháp, Tám kính pháp và 348 giới Tỳ-kheo-ni. Chư Ni Khất sĩ mặc bộ tam y, dùng bình bát đất, hành hạnh Khất sĩ để trở thành bậc Vô thượng sĩ trong một ngày mai.

- Bốn y pháp: là Tứ Thánh chủng, là bốn hạt giống Thánh hạnh, là bốn pháp trung đạo về đời sống thật tế ăn mặc ở bệnh của người xuất gia tu Phật.

1. Nhà sư khất thực phải lượm những vải bỏ mà đâu lại thành áo, nhưng có ai cúng vải, đồ cũ thì được nhận.

2. Nhà sư khất thực chỉ ăn đồ xin mà thôi, nhưng ngày hội, thuyết pháp, đọc Giới bổn, được ăn tại chùa.

3. Nhà sư khất thực phải nghỉ dưới cội cây, nhưng có ai cúng lều, am nhỏ bằng lá một cửa thì được ở.

4. Nhà sư khất thực chỉ dùng phân uế của bò mà làm thuốc trong khi đau, nhưng có ai cúng thuốc, dầu, đường thì được dùng.

2.4.1. Tám kính pháp

Tám kính pháp là 8 điều kiện mà nữ giới cung kính thọ lãnh từ Phật Thích-ca để được phép xuất gia trong giáo pháp của Ngài. Tám kính pháp là 8 pháp kính trọng, là 8 quy định cụ thể về sự tôn kính Tăng bảo luôn luôn của Ni giới. Tinh thần chung của Tám kính pháp là mọi pháp sự bên Ni giới đều phải có sự chứng minh của chư Tôn đức Tăng. Tinh thần này có hai ý nghĩa: một là nêu cao đức khiêm tốn vô ngã của các nữ Khất sĩ đệ tử Phật và hai là Đức Phật đã phó chúc cho Tăng đoàn phải thường quan tâm giúp đỡ cho Ni giới như những người anh lớn đối với các em trong đại gia đình Phật giáo. Trong 7 chúng đệ tử Phật, chư Tỳ-kheo Tăng là các trưởng tử và thứ đến là chư Tỳ-kheo-ni, còn các chúng kia là hàng học trò của 2 chúng này. Tám kính pháp có nội dung như sau:

1. Ni cô bao giờ cũng phải lễ bái chư Tăng, dầu cho lớn tuổi thế mấy cũng vậy.

2. Ni cô không được phép trách mắng, rầy rà, nói hành chư Tăng.

3. Ni cô không được phép xen vào việc ưng oan của chư Tăng.

4. Ni cô tập sự hai năm, nếu muốn vào hàng xuất gia thiệt thọ phải có Giáo hội chư Tăng chứng nhận.

5. Ni cô nếu phạm giới phải sám hối giữa hai Giáo hội nữ và nam.

6. Ni cô phải nhờ Giáo hội chư Tăng chứng minh đọc Giới bổn mỗi kỳ nửa tháng.

7. Ni cô không được tựu hội nghỉ mùa mưa ở một xứ không có chư Tăng.

8. Ni cô phải nhờ chư Tăng sắp đặt chỗ nơi hành đạo khi dứt mùa mưa.

Đối tượng của 8 pháp này là các Ni cô, là các nữ Khất sĩ. Tổ sư dùng từ “Giáo hội nữ” ta có thể hiểu đó là Ni giới, Ni chúng, Ni đoàn, Ni bộ, Ni lưu... còn từ “Giáo hội nam” ta có thể hiểu đó là Tăng giới, Tăng chúng, Tăng đoàn, Tăng bộ...

2.4.2. 348 Giới Tỳ-kheo-ni

Chia làm 6 nhóm giới và nhóm 7 pháp diệt sự tranh cãi. 6 nhóm giới của Tỳ-kheo-ni xếp theo thứ tự từ nặng đến nhẹ như sau:

1. 8 đại giới

2. 17 giới tổn hại Tăng tàn

3. 30 giới phá sự thanh bần

4. 178 giới hành phạt

5. 8 giới đặc biệt

6. 100 giới nhỏ phải học

7. 7 pháp diệt sự tranh cãi:

Giới bổn Ni Khất sĩ có 6 nhóm giới với 6 mức định tội căn bản như sau:

1. 8 đại giới – trục xuất

2. 17 giới tổn hại Tăng tàn – giáng cấp

3. 30 giới phá sự thanh bần – cấm phòng 6 bữa

4. 178 giới hành phạt – quỳ hương

5. 8 giới đặc biệt – xưng tội xả đọa

6. 100 giới nhỏ phải học – sám hối

2.5. Giới pháp Tỳ-kheo: gồm Bốn y pháp và 250 giới Tỳ-kheo. Chư Tăng Khất sĩ mặc bộ tam y, dùng bình bát đất, hành hạnh Khất sĩ để trở thành bậc Vô thượng sĩ trong tương lai.

a. Bốn y pháp: Giống như chư Ni (đoạn trên)

b. 250 giới Tỳ-kheo.

Chia làm 7 nhóm giới và nhóm 7 pháp diệt sự tranh cãi. 7 nhóm giới của Tỳ-kheo xếp theo thứ tự từ nặng đến nhẹ như sau:

1. 4 đại giới

2. 13 giới tổn hại Tăng tàn

3. 2 giới không định

4. 30 giới phá sự thanh bần

5. 90 giới hành phạt

6. 4 giới đặc biệt

7. 100 giới nhỏ phải học

8. 7 pháp diệt sự tranh cãi (Khi có việc xảy ra xung đột, bất bình thì xử cho êm đi)

 1. Dùng cách tự thuận

 2. Hoặc nói quyết rằng quên

 3. Hoặc mình không biết, không cố ý

 4. Hoặc xin lỗi thành thật mình đã lỡ phạm

 5. Hoặc chuyển lên Giáo hội xem xét cho

 6. Hoặc nhờ thầy quảng đại quyết định cho

 7. Hoặc cùng nhau niệm Phật bỏ qua, khỏa lấp như cỏ mới mọc.

Mỗi điều của 7 pháp này đều rõ nghĩa, có lý có tình, chắc chắn là có thể hòa giải ổn thỏa những đấu tranh trong Tăng chúng. Nếu Thất diệt tránh pháp được dịch như đoạn dưới đây thì các thuật ngữ “phép hiện tiền”, “phép bất si”, “tự ngôn trị”, “cách như cỏ che đất” cần phải giải thích thêm mới hiểu mà biết cách ứng dụng, như thế là không tiện.

Thất diệt tránh pháp:

1. Nên dùng phép hiện tiền thì dùng phép hiện tiền.

2. Nên dùng phép nhớ lại thì dùng phép nhớ lại.

3. Nên dùng phép bất si thì dùng phép bất si.

4. Nên dùng tự ngôn trị thì dùng tự ngôn trị.

5. Nên dùng cách tìm tướng tội thì dùng cách tìm tướng tội.

6. Nên dùng cách nhiều người tìm tướng tội thì dùng cách nhiều người tìm tướng tội.

7. Nên như cỏ che đất thì dùng cách như cỏ che đất.

Trong Luật tạng, các từ được sử dụng như “tụ”, “thiên”, “chương”, “kiền-độ” đều có nghĩa chung là “phần”. Nếu đem các từ này dùng như danh từ riêng thì sẽ bất tiện. Như khi nói “5 thiên 7 tụ” thì ta phải giải thích thêm rằng “thiên” chỉ cái gì và “tụ” chỉ cái gì. Tức là, khi nói theo cách đó thì phải dùng thêm một tầng ngôn ngữ nữa để định nghĩa và giải thích. Chính những trình bày nhiều tầng  đã làm cho Luật tạng trở nên rối, trở nên đáng e ngại, ít được phổ biến và ứng dụng… Nếu như cần phải chú giải thì nên gom các chú giải thành một phần riêng, cho thích hợp, tiện dụng.

Giới bổn Tăng Khất sĩ có 7 nhóm giới với 6 mức định tội căn bản như sau:

1. 4 đại giới – trục xuất

2. 13 giới tổn hại Tăng tàn – giáng cấp

3. 2 giới không định

4. 30 giới phá sự thanh bần – cấm phòng 6 bữa

5. 90 giới hành phạt – quỳ hương

6. 4 giới đặc biệt – xưng tội xả đọa

7. 100 giới nhỏ phải học – sám hối

Như vậy là Giới bổn Tăng Khất sĩ có 6 thiên 7 tụ, nếu theo cách nói cũ. Giới bổn này đã có thêm hình phạt giáng cấp. Trong 2 bộ Giới bổn Khất sĩ, cách sử dụng tên chung (danh) đi kèm với loại tội trạng (chủng) như ở trên thật là gọn, dễ nhớ, dễ sử dụng.

2.6. Giới pháp Phật tử

Giới Phật tử gồm 10 giới trọng và 48 giới khinh được Tổ sư Minh Đăng Quang biên tập từ kinh Phạm Võng. Vì sao dùng tên là Giới Phật tử mà không gọi là Giới Bồ-tát? Bởi Phật tử nghĩa là con Phật, là những người từ pháp Phật sanh, là các nam nữ Khất sĩ, gồm hết các hàng Thánh vị Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ-tát... Từ Phật tử mang những nghĩa bao quát và khiêm tốn, dùng từ này để đặt tên cho 10 giới trọng và 48 giới khinh là thích hợp nhất, sẽ diễn đạt chính xác cả nghĩa và ý. Khi dùng từ Bồ-tát thì có vẻ như các bậc Thanh Văn, Duyên Giác không có phần, như thế không phải là tâm nhất thừa bình đẳng. Lại nữa, từ Bồ-tát thường được hiểu là chỉ một hạng người cao hơn mọi người, nên dùng từ này dễ dẫn đến sự ngộ nhận, làm nảy sanh hoặc tự tôn hoặc tự ti, đều không hay. Phật pháp khai triển ở nhân gian đã lấy 7 chúng Phật tử là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di làm đối tượng giáo hóa căn bản. Bảy chúng đó là Thanh Văn hay là Bồ-tát sẽ được xác định trên tâm đức và trí tuệ của họ. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã từng nhận xét các ngài A-nan, Tu-bồ-đề, Ca-chiên-diên… là các bậc “Ngoài hiện tướng Thanh Văn, trong ẩn hạnh Bồ-tát”, ai bảo các vị ấy là hàng sơ học là lầm.

Giới Phật tử đã được Tổ sư Minh Đăng Quang biên tập thành Chơn lý số 55 và mỗi tháng vào sáng ngày mùng 8 hoặc sáng ngày 23, đại chúng đều tụng giới này một lần (ở các tịnh xá lớn). Hàng ngày cúng Ngọ, trong bài kệ Thọ bát mọi người thường đọc đã nêu lên 3 đại nguyện căn bản của Phật pháp:

 Nguyện dứt ác duyên thoáng sạch không,

 Nguyện các việc lành làm tất cả,

 Nguyện xin độ tận chúng sanh chung.

Ba đại nguyện căn bản này còn thường được gọi là ba nhóm Phật pháp (tam tụ) hay ba nhóm giới trong sạch của các Phật tử (tam tụ tịnh giới), chúng bao hàm Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới và Nhiêu ích hữu tình giới. Đức Phật Ca-diếp đã khẳng định: “Chớ làm các điều ác, hãy làm các điều lành, cái sở ý của ngươi phải cho trong sạch luôn luôn, chư Phật đều dạy như vậy!”. Vậy hiểu theo nghĩa rộng, giới tức là pháp, không có gì sai khác, ai thọ giới cũng là thọ pháp, ai hành trì giáo pháp cũng là thọ giới vậy.

Giới Phật tử do Tổ sư Minh Đăng Quang biên tập có những nét đặc biệt của nó phù hợp với Chánh pháp của ba đời chư Phật. Xin trích dẫn vài đoạn để mọi người theo dõi:

GIỚI PHẬT TỬ

Các Phật tử lóng nghe!

Xưa Phật bảo các hàng Phật tử xuất gia rằng: có 10 giới trọng, nếu các ngươi thọ giới Phật tử mà không tụng giới này, thời chẳng phải Phật tử, chẳng phải dòng giống Phật. Ta cũng tụng như vậy, tất cả Phật tử đã học, sẽ học và nay học, cần phải học, kỉnh tâm vâng giữ.

Phật nói:

1. Này Phật tử! Hoặc mình giết,…

2. Này Phật tử! Mình trộm,…

3. Này Phật tử! Mình dâm,…

4. Này Phật tử! Mình nói vọng,…”

Vậy giới pháp này Đức Phật dạy cho các hàng Phật tử xuất gia. Khi tụng giới này các chúng xuất gia nhỏ cũng được dự nghe. 58 giới Phật tử đều được mở đầu bằng câu “Này Phật tử!”. Khi so sánh Giới Phật tử của Tổ sư Minh Đăng Quang biên tập với Kinh Phạm Võng Bồ-tát giới của Hòa thượng Trí Tịnh dịch từ Hán ngữ, ta dễ nhận ra nhiều chỗ khác nhau về văn phong, ý tứ… ví dụ các giới khinh thứ 5, 8 và 24:

“5. Này Phật tử! Thấy chúng Tăng phạm phá giới cấm, mắc thất nghịch, bát nạn, hết thảy các tội phạm giới, đều phải dạy họ sám hối. Mà Phật tử đã không dạy sám hối, lại còn để chung ở, chung hưởng của chúng Tăng và chung cùng bố-tát, đồng chúng tụng giới, mà không cử tội người đó, cũng không dạy người đó sám hối, thời phạm khinh cấu tội”.

Và “5. GIỚI KHÔNG DẠY NGƯỜI SÁM TỘI

Nếu Phật tử khi thấy người phạm ngũ giới, bát giới, thập giới, phá giới hay phạm thất nghịch, bát nạn, tất cả tội phạm giới… phải khuyên bảo người ấy sám hối. Nếu Phật tử chẳng khuyên bảo người phạm tội sám hối, lại cùng ở chung, đồng sống chung, đồng chúng bố-tát, đồng thuyết giới, mà không cử tội người ấy, không nhắc người ấy sám hối, Phật tử này phạm khinh cấu tội”…

“8. Này Phật tử! Đem lòng bỏ kinh luật thường trụ cho là không phải Phật nói, mà vâng giữ theo những giới cấm kinh luật của tà kiến, của ngoại đạo, thời phạm khinh cấu tội!”.

Và “8. GIỚI CÓ TÂM TRÁI BỎ ĐẠI THỪA

Nếu Phật tử, có quan niệm trái bỏ kinh luật Đại thừa thường trụ, cho rằng không phải của Phật nói, mà đi thọ trì kinh luật tà kiến và tất cả cấm giới của Thanh Văn nhị thừa cùng ngoại đạo ác kiến, Phật tử này phạm khinh cấu tội.”

“24. Này Phật tử! Có kinh luật của Phật, chánh kiến, chánh tánh, chánh pháp thân, mà không chịu cần học tu tập, khác nào bỏ của thất bảo, trở lại học theo sách vở của thế tục, lý luận của đời, các luận của ngoại đạo, tất cả thuyết của tà kiến; đó là nhơn duyên ngăn đạo, dứt mất Phật tánh, chẳng phải tu hạnh Phật tử. Nếu cố làm như thế phạm khinh cấu tội!”

Và “24. GIỚI KHÔNG TẬP HỌC ĐẠI THỪA

Nếu Phật tử, có kinh luật Đại thừa pháp, chánh kiến, chánh tánh, chánh pháp thân của Phật, mà không chịu siêng học siêng tu, lại bỏ bảy của báu, trở học những sách luận tà kiến của Nhị thừa, ngoại đạo, thế tục; đó là làm mất giống Phật, là nhơn duyên chướng đạo, chẳng phải thực hành đạo Bồ-tát. Nếu cố làm như vậy, Phật tử này phạm khinh cấu tội.”

Giới Phật tử bao quát đầy đủ cả 3 nghiệp thân khẩu ý, chính là phần mở rộng của các giới pháp căn bản mà Đức Phật đã biệt truyền cho các chúng Phật tử xuất gia. Với những khoản: “… Hoặc mình giết, bảo người giết, phương tiện giết, khen ngợi giết, thấy giết vui theo, nhẫn đến chú thuật giết, nhơn giết, duyên giết, pháp giết, nghiệp giết, tất cả các loài có mạng sống không nên cố giết…” thì chính là giới sát triệt để chứ có gì lạ. Hoặc giới 32: “… Không đặng buôn bán dao, gậy, cung, tên, cân non, giạ thiếu, cậy thế lực quan trên lấy ngang của chúng, lòng ác trói buộc phá hư việc thành công của người, và nuôi mèo, chồn, heo, chó v.v… Nếu cố làm thời phạm khinh cấu tội”, thì cũng chính là ý nghĩa của Chánh mạng trong Bát chánh đạo mà thôi. Sự mở rộng là mở rộng của cái chính, cái căn bản. Khi những cái căn bản được xem là tà kiến, phi pháp, nhỏ mọn… thì thật chẳng biết nói thế nào nữa! Lẽ nào Phật Thích-ca đã dạy những cái đó cho các đệ tử? Cho nên Tổ sư Minh Đăng Quang đã lược bỏ hết những từ ngữ và ý tứ đó trong khi biên tập Giới Phật tử…

Nhiều người nói rằng Giới Phật tử là tâm giới. Nhưng tâm chơn không cần lập giới cấm, còn tâm có giới cấm là tâm vọng. Mà tâm vọng tức là nghiệp, là thức và hành, là từ trong những cảnh giới của chúng sanh mà có. Dù Giới Phật tử được kết tập trong pháp hội Hoa Nghiêm, trước khi Đức Thích-ca có các đệ tử xuất gia đi nữa, giới pháp này cũng phải ứng theo chúng sanh pháp mà lập, tức là ứng theo nghiệp vọng cố hữu nhiều đời kiếp của chúng sanh mà lập chứ không thể khác. Nên Tổ sư Minh Đăng Quang đã dạy: “Người tội sanh giới luật chớ giới luật không sanh người tội…”. Phật pháp không có hai vị và lẽ tâm chơn tâm vọng này chắc là không sai.

Giới Phật tử chia làm 2 nhóm theo 2 mức định tội căn bản: nhóm giới trọng (nặng) có 10 điều và nhóm giới khinh (nhẹ) có 48 điều. Giới Phật tử có nội dung vắn tắt là 3 câu Dứt ác, Làm lành và Từ bi tế độ chúng sanh, cũng như lời giáo giới của Đức Phật Ca-diếp đã nói trên.

Thật tế cho thấy, Giới Phật tử đã từ Trung Quốc mà được lưu truyền khắp vùng Đông Á. Trung Quốc đã là một đất nước phong kiến rộng lớn, mạnh mẽ suốt mấy ngàn năm, do hàng vua quan quý tộc nắm đại quyền, sở hữu nhiều tài sản và có nhiều ảnh hưởng lớn trong xã hội. Nếu tầng lớp đứng đầu xã hội đó theo Phật giáo, gắn bó với Phật giáo, thì ắt Phật giáo sẽ có nhiều sự ủng hộ đáng kể. Để kêu gọi các tầng lớp quý tộc Trung Quốc này có lẽ phải cần một giới pháp, ngoài giới pháp xuất gia, được xem là cao hơn giới pháp xuất gia chẳng hạn... Diện mạo chân thật của Giới Phật tử trong nền Phật giáo Ấn Độ như thế nào thì còn cần phải tìm hiểu, nhưng cứ theo lý mà suy thì nó phải phù hợp với Chánh pháp của ba đời ngàn Phật: quá khứ Trang nghiêm kiếp có 1.000 Đức Phật, hiện tại Hiền kiếp có 1000 Đức Phật và vị lai Tinh tú kiếp cũng có 1000 Đức Phật ra đời tại địa cầu này. Điều được xác định ở đây là Giới Phật tử do Tổ sư Minh Đăng Quang biên tập lại từ Kinh Phạm Võng đã có những đặc điểm nổi bật: một là dành cho người xuất gia, hai là không chống báng các giới pháp xuất gia mà Đức Phật Thích-ca đã dạy, ba là không có sự truyền thọ nhưng đã được biên tập và vẫn thường được tham khảo tụng đọc tập thể, và bốn là văn phong mạch lạc, ôn hòa, súc tích... Còn hàng cư sĩ như đã lược nêu trong phần B1 chỉ có hai giới pháp là 5 giới và 8 giới mà thôi.

Tóm lại, các Giới bổn mới chính là trọng tâm cho các Khất sĩ thọ và trì, còn Giới Phật tử cũng nên tham khảo để phát tâm, lập chí, học theo gương chư Phật. Kinh Hoa Nghiêm đã dạy: “Giới là gốc của Bồ-đề vô thượng”, Kinh Phạm võng đã dạy: “Chúng Phật tử nhiều như vi trần do giới pháp Phật dạy mà thành Chánh giác” hàng Phật tử nên ghi nhớ trân trọng sự thật cao quý đó!

2.7. 114 điều Luật nghi Khất sĩ

1. Cấm tất cả Tăng sư cùng tập sự lớn nhỏ, chưa có xin phép Giáo hội, không có việc gì khẩn cấp, tự ý ra đi, lén trốn mà đi, phạm bị giáng cấp.

2. Cấm kẻ nào nói “Tôi chỉ biết có một mình Sư trưởng”, cả thảy phải quy tuân theo phép của Giáo hội.

3. Cấm nói thế sự vua quan, thiên cơ sấm giảng.

 

 34. Cấm người tu trí huệ mà nói chuyện nhiều và không giới, định.

 35. Cấm người xuất gia mà không tu thiền định.

 

70. Cấm người xuất gia mà còn tham lam, sân giận, si mê.

71. Cấm xuất gia mà còn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý không trong sạch (như kẻ thế).

80. Cấm cho thọ Giới y bát một người dốt văn tự quốc ngữ (phải mặc áo quần tập sự).

81. Cấm cho mặc dùng y bát một người trì giới, thiền định không được.

113. Cấm hay kiếm chuyện này chuyện kia làm phiền trong Giáo hội.

114. Cấm hay đòi hỏi làm khó rầy trong Giáo hội.

114 điều Luật nghi Khất sĩ, điều 1 nhằm ngăn ngừa tình trạng Tăng, Ni Khất sĩ tự do đi tu tịnh vô tổ chức. Trong điều 2, “Sư trưởng” lúc đầu là chỉ Tổ sư Minh Đăng Quang khi Ngài còn tại thế, về sau là chỉ các vị Trưởng Giáo đoàn. Điều 3 là tinh thần chung của Thích-ca Chánh pháp. Điều 71, lục căn không trong sạch là không trong sạch về hành vi đạo đức: ngó liếc, nghe ngóng, xao động, đòi hỏi ăn ngủ… Điều 80 bị trùng với điều 24: “Cấm cho một người dốt, không thông chữ quốc ngữ thọ giới y bát (tùy theo mỗi cách)”. Nhưng nhờ điều 80 ta xác định được giới y bát là các giới gì, theo cách nói của Tổ sư.

2.8. Những quy định của Hệ phái Phật giáo Khất sĩ

a. Chương Luật Khất sĩ: trong chương này, Tổ sư Minh Đăng Quang đã nêu các nội dung:

– Bình bát đất

– Bộ tam y của các nam Khất sĩ và nữ Khất sĩ

– Các vật dụng đơn giản của người xuất gia: khăn lau, choàng tắm, muỗng, bàn chải, dao cạo, lược nước, ca uống nước, mùng, giường, ghế, cốc, tọa cụ…

– Tứ y pháp và 10 giới (hoặc 250 giới)

– Niết-bàn thời khắc biểu – Trú dạ lục thời

– Giáo hội Tăng-già Khất sĩ

– Xuất gia, thọ giới, tấn phong

– Xây cất tịnh xá, phòng cốc, làm tháp thờ Phật

– Sinh hoạt: cúng hội, khất thực, đọc kinh, tu tịnh, dạy chữ, in kinh sách…

– Bổn phận Sư tri sự

– Cách đi khất thực

– Phép đi đến nhà cư sĩ

– Các hạnh khất sĩ: ăn, mặc, nói, làm, đi, đứng, ngồi, nằm, thức (tỉnh), mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý…

b. Các quy định của Hội đồng Giáo phẩm Hệ phái Phật giáo Khất sĩ Việt Nam

– Truyền giới Sa-di tại Giáo đoàn. Tiêu chuẩn được thọ giới: tối thiểu phải xuất gia một năm rưỡi và 18 tuổi đời, hạnh kiểm tốt, bài vở thuộc, được sự giới thiệu xin phép của Bổn sư.

– Truyền giới Tỳ-kheo: Từ thời Đức Tổ sư Minh Đăng Quang, các Giới đàn Khất sĩ đã thường được tổ chức mỗi năm một lần vào ngày Tự Tứ. Đến năm 1962, các Giáo đoàn buộc phải Tự Tứ riêng do sự can thiệp của chính quyền nhà Ngô ở Tây Ninh và đã tổ chức các giới đàn Khất sĩ riêng. Qua năm 1963, các Giáo đoàn vẫn còn Tự Tứ chung ở Long Xuyên, hàng lãnh đạo các giáo đoàn vẫn về đủ nhưng chư Tăng về không đủ do tình hình rối ren từ cuộc đảo chánh thời nhà Ngô. Do vậy, trong lần Tự Tứ 1963 này, Thượng tọa Nhị tổ Giác Chánh đã chính thức tuyên bố các Giáo đoàn tạm sinh hoạt riêng. Và kể từ năm 1995 đến nay, giới đàn Khất sĩ được tổ chức tập trung mỗi năm một lần vào tối ngày mùng 9 tháng 7 âm lịch tại Trường hạ Hệ phái Tịnh xá Trung Tâm – Q. Bình Thạnh – TP. HCM (để sáng ngày mùng 10 giải Hạ, về các Giáo đoàn Tự Tứ, về các nơi dự lễ Vu-lan). Các tiêu chuẩn được thọ giới Tỳ-kheo: tối thiểu là 3 năm Sa-di và 21 tuổi đời, năm thọ giới phải an cư tại Trường hạ Hệ phái (trừ lý do bận đi học các trường Phật học ở địa phương), hạnh kiểm tốt, bài vở thuộc, nắm vững được một phần Phật pháp căn bản, vượt qua được kỳ sát hạch tại giới đàn (3 môn được điểm từ 10 đến 20), được sự giới thiệu xin phép của Bổn sư, được Giáo đoàn thông qua.

– Truyền các giới của chư Ni: Tại giáo đoàn, có các tiêu chuẩn thọ giới riêng. Nếu Giới đàn nữ Khất sĩ cũng được tổ chức tập trung như phép tắc thời Tổ sư thì hay lắm. Các Ni trưởng Khất sĩ hiện nay cũng rất mong mỏi điều này. Từ Ni trưởng Tràng Liên ở Giáo đoàn Ngọc Phương đến quý Ni trưởng ở các Giáo đoàn khác cũng vậy. Và như thế, ngoài những giới đàn phụ cho các chúng nhỏ, từ lâu Phật giáo Khất sĩ đã có 2 giới đàn chính để chơn truyền y bát, chơn truyền giới luật cho chư Khất sĩ. Tinh thần “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp” quả thật đã bàng bạc khắp trong nền Phật giáo do Đức Tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng.

– Họp Hội đồng Giáo phẩm Hệ phái Phật giáo Khất sĩ: Mỗi năm 4 lần thường kỳ tại trụ sở hệ phái, vào 3 ngày cúng Đức Thầy Giác Lý, Đức Trưởng lão Tri sự Giác Như, Đức Trưởng lão Tăng chủ Giác Tánh và 1 ngày sau kỳ Tự Tứ Tăng. Các Giáo đoàn Tăng họp trước, sau đó chư Tôn đức Tăng lãnh đạo chứng minh cho các đoàn Ni giới.

3. Tạm kết

Với tinh thần căn bản là “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp”, Giới luật Khất sĩ đã được Tổ sư Minh Đăng Quang tổng hợp và ban hành cho các Tăng, Ni Khất sĩ và Phật tử tu học. Qua những gì đã tìm hiểu, có thể kết luận rằng Phật giáo Khất sĩ có một hệ thống giới luật hoàn bị, vững chắc. Hệ thống giới luật này đã tác thành đạo nghiệp cho chư Khất sĩ. Nương theo hệ thống giới luật này, chư Khất sĩ đã được sinh ra và lớn lên, trở thành những bậc tài đức hữu dụng, như con được lớn mạnh nhờ sữa mẹ giàu chất bổ dưỡng, như cây được xum xuê nhờ có bộ rễ tốt, như tòa nhà bất động trước gió bão nhờ nền móng vững chắc của nó.

Trong phạm vi tìm hiểu sơ lược, bài viết đại cương này đã vạch ra những nội dung căn bảnnhững đặc điểm của Giới luật Khất sĩ. Những khía cạnh khác của Giới luật Khất sĩ sẽ được lần lượt tìm hiểu trong các bài viết khác. Đến đây, chỉ có một điều căn bản được khẳng định là Phật giáo Khất sĩ có một hệ thống giới luật biệt truyền như vậy.

Những gì chư Phật chư Tổ đã làm là qua những thấy biết như thật của các Ngài. Còn những gì hình thành nên bài viết này lại là căn cứ vào những thấy nghe lượm lặt và những suy luận tổng hợp. Nếu bài viết này được đúng như chơn lý thì đáng mừng, còn nếu không thì đó là lỗi riêng của soạn giả. Với nhiệt tình hộ trì Chánh pháp của bài viết này, xin các bậc cao minh lượng thứ và bổ khuyết thêm cho.

 ***

 TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tổ sư Minh Đăng Quang, Chơn lý, TP.HCM, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh, 1993.

2. Tổ sư Minh Đăng Quang, Luật nghi Khất sĩ, Sài Gòn, Giáo hội Tăng-già Khất sĩ Việt Nam, 1972.

3. Sa-môn Thích Trí Tịnh (dịch), Kinh Phạm Võng Bồ-tát giới, Sài Gòn, chùa Vạn Đức ấn tống, 1971.

4. HT. Thích Thiện Hòa, Tỳ-kheo giới kinh, TP. HCM, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh, 1992.

5. HT. Thích Trí Thủ, Luật Tỳ-kheo, 3 tập, TP. HCM, Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, 1991.

6. HT. Thích Thiện Siêu, Cương yếu giới luật, Hà Nội, Nxb. Tôn Giáo, 2002.

7. HT. Thích Phước Sơn, Luật học tinh yếu, TP. HCM, Nxb. Phương Đông, 2006.

8. HT. Thánh Nghiêm, Giới luật học cương yếu do Tuệ Đăng dịch, TP. HCM, Nxb. Thành Phố Hồ Chí Minh, 2000.

9. Sa-môn Thích Minh Thành, Giáo trình luật học cơ bản, 5 tập, TP. HCM, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh, 1993.

10. HT. Thích Thanh Kiểm, Lịch sử Phật giáo Trung Quốc, Hà Nội, Nxb. Tôn giáo, 2001.