Hai chí hướng

(Kính dâng hương hồn thân phụ: Ngô Văn Phú

biệt hiệu Trọng Liêm).

******

“Lời nói là gươm: người Khất sĩ

Bút lông là kiếm: khách văn chương”.

****** 

Chiều đổ xuống, đàn chim về tổ ấm

Con đang ngồi thơ thẩn ngắm mây bay

Chợt! Hình cha hiện đến vóc… gầy gầy

Theo sương khói, mờ mờ… con chạnh nghĩ:

Cha, thuở trước, cha là nhà văn sĩ

Rút ruột tằm, trả nợ lá dâu xanh

Rồi đêm đêm cha thức quá tàn canh

Lo nặn óc, trải lòng trên giấy thắm…

Con, hiện tại, con là đời vạn dặm…

Gót hải h, phiêu bạt khắp năm châu

Lấy tàn hơi, chỉ rõ lý đạo mầu

Cho lữ khách quay đầu về Phật, Pháp

Dù quyền lực hay phong trần, bão táp

Ngọn “bút lông” cha cứ việc hươi lên…

Dù máu hồng, hoặc lửa đạn, mưa tên

Lời “chơn đế” con vẫn hùng hồn thuyết

Phú quý! Công danh! Tiền tài! Yến tiệc!

Có thay lòng, đổi dạ, của cha đâu.

Vinh hoa! Mỹ nữ! Khanh tướng! Công hầu!

Không lay chuyển lòng sắt son con được.

Cha: chỉ biết “lương tâm”, làm mực thước

Con chỉ cần “chơn lý”, ấy phương châm.

Nếu màu “thâm”, cha viết: “nó là thâm”

Như vụ lợi cha viết: “thâm là trắng”.

Bằng màu ấy là thứ màu: “trong trắng”

Không bao giờ con bảo “trắng là thâm”.

Phải vương tơ, là bổn phận con tằm

Phải thuyết pháp, là hành vi Tăng lữ,

Một ngọn bút, cha tung, vô lượng chữ…

Để nâng cao “chánh lý”, phá “dâm tà”

Đôi môi hồng con thong thả ngâm nga

Vài câu kệ, lấp tiêu, điều mộng mị.

Vậy, ý chí, mục phiêu, đồng xả kỷ;

Rồi cha, con cứ tiến… tiến bon bon…

Nhưng hỡi ôi! Bao hoài bão chưa tròn

Cha vội thác, khi đời còn tươi trẻ.

Nhìn mộ xám, cỏ úa vàng buồn tẻ

Nhạc dế sầu, rỉ rả… khóc: năm canh

Gió lai rai, vài chiếc lá lìa cành

Lìa mây tím âm thầm trôi… khắp nẻo…

Con vội dệt vần thơ, lòng lạnh lẽo

Kính dâng cha, miền tiên cảnh xa xôi…

Xin nhớ rằng: dù vật đổi, sao dời

Con vẫn tiến mặc tình đời lạnh, ấm.