Sáng 27/10/2025 (7/9/Ất Tỵ), HT. Giác Nhân – Ủy viên HĐTS, Phó Trưởng ban Hướng dẫn Phật tử T.Ư, Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Đồng Tháp, Tri sự Phó Thường trực GĐ.V PGKS, đã quang lâm khóa tu Truyền thống Khất sĩ lần thứ 38 và dành lời sách tấn đến chư hành giả tại khóa tu ngang qua chủ đề “Ba pháp chướng ngại và bốn pháp bất thối đọa trong đời sống tu học”. Qua đó, giúp chư hành giả nhận ra những trở ngại tiềm ẩn trong tâm và phương pháp vượt qua để vững bước trên con đường giải thoát.
.jpg)
Mở đầu bài giảng, HT. Giác Nhân nhắc đến ba pháp thường làm chướng ngại sự tu hành, đó là tham dục, sân hận và hôn trầm thụy miên, được Đức Phật chỉ dạy trong Kinh Tăng Chi Bộ.
Dẫn lại lời Đức Phật trong phẩm Tịnh tướng: “Ta không thấy một pháp nào khác khiến dục tham chưa sanh được sanh khởi, hay dục tham đã sanh được tăng trưởng, như tịnh tướng”, Hòa thượng chỉ rõ, “tịnh tướng” là những hình tướng đẹp đẽ, khả ái, dễ khởi tâm say đắm. Nếu không như lý tác ý, người tu dễ bị sắc tướng lôi cuốn, khiến tâm mất định. Trong đó, theo Hòa thượng, độ tuổi từ 20 đến 40 là giai đoạn mà dục vọng âm ỉ, khó chế ngự nhất.
Hòa thượng kể câu chuyện về thiền sư và cây than chết: Khi các học trò tự cho rằng đã đoạn dục, vị thiền sư giao cho mỗi người một cây than cháy dở để thử thách. Đêm đó, cây than hóa thành cô gái xinh đẹp, khiến ai nấy đều thất niệm ôm ấp. Sáng ra, mặt mày ai cũng lấm lem tro bụi. Chỉ một người dám nhận rằng “chính vì đã từng rơi vào sắc mà con biết sợ, nên nay mới thật sự tỉnh giác”.
Từ ví dụ ấy, Hòa thượng khuyên đại chúng phòng hộ tâm trước sắc, đừng lý luận với con tim mà tốt nhất nên tránh xa, hoặc dùng pháp bất tịnh quán để đối trị, như Đức Phật dạy trong câu chuyện A Nan và Ma-đăng-già. Khi Ma-đăng-già si mê dung nhan A Nan, Đức Phật đã chỉ ra sự bất tịnh trong thân thể, giúp nàng giác ngộ: “Nàng ơi, nàng chớ mê sai, / Mắt kia ghèn cháo, nhớp nhơ đủ đầy”.
.jpg)
Hòa thượng nhấn mạnh: “Người tu phải thấy rõ bản chất vô thường, bất tịnh của thân để nguội lạnh dục tham. Như lời Phật dạy, nếu như lý tác ý tướng bất tịnh, dục tham sẽ không sanh khởi”.
Nói về sân hận, pháp chướng ngại thứ hai, Hòa thượng dẫn lời Phật dạy: “Không có pháp nào khác khiến sân chưa sanh được sanh khởi, hay sân đã sanh được tăng trưởng, như đối ngại tướng”.
Để làm rõ, Hòa thượng kể lại chuyện hai đạo sĩ Nananda và Devala – chỉ vì hiểu lầm nhỏ khi đi ra khỏi lò gốm mà sinh ra sân hận đến mức mặt trời không mọc được. Câu chuyện kết thúc khi Devala chịu tha thứ, và mặt trời mới ló dạng. Từ đó, Hòa thượng sách tấn: “Sân hận là ngọn lửa đốt cháy công đức, khiến tâm mất định, trí mờ đi. Người xuất gia phải lấy nhẫn nhục và từ tâm để đối trị. Nhẫn hết, nhẫn hoài, nhẫn mãi, đến khi thành chánh giác. Chỉ có tình thương mới hóa giải được tất cả”.
Đối với pháp chướng ngại thứ ba là hôn trầm, Hòa thượng giải thích rõ, đây đều là biểu hiện của sự lười biếng, thụ động và thiếu hân hoan trong tu tập. Hòa thượng ví hôn trầm như “bệnh trầm kha” của người tu, thường khởi khi tâm thiếu hứng khởi, ăn quá no, hay không thấy được ý nghĩa của việc hành trì. Pháp đối trị là tinh tấn và chánh niệm. Hòa thượng nhắc nhở: “Hãy nhớ ân thí chủ, nhớ rằng thân này sống nhờ bát cơm đàn na, món ăn ấy nặng như núi Tu di. Nếu không tu tinh tấn, ta sẽ mang nợ không cùng. Khi nhận thức sâu sắc về ân đức ấy, người tu sẽ tự khởi lên tinh cần để đoạn trừ hôn trầm.
.jpg)
Bên cạnh đó, Hòa thượng cũng chỉ ra bốn pháp giúp Tỳ-kheo không thối đọa, hay không rơi khỏi con đường Thánh đạo: Giữ giới thanh tịnh, Hộ trì các căn, Tiết độ trong ăn uống, Chánh niệm tỉnh giác.
Hòa thượng khẳng định: “Giới là nền tảng của đạo Phật, là gốc của mọi công đức. Người tu phải nhẫn nhịn, hòa hợp, biết dùng 7 pháp giải hòa để giữ yên đoàn thể. Đừng chỉ xem người có định trong lúc ngồi thiền là người tu giỏi. Hãy xem họ sau khi xả thiền, trong đi, đứng, nói năng có thanh tịnh hay không. Giới chính là thiền trong từng cử chỉ”.
Theo Hòa thượng, ngoài giữ giới, người tu phải tu thúc lục căn, không nắm giữ tướng chung, tướng riêng khi thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm, nghĩ. Qua đó, Hòa thượng khuyế tấn chư hành giả: “Nếu chưa đủ định lực, hãy tránh xa. Tập trung phòng hộ nơi căn yếu nhất. Lặng lẽ, trầm tĩnh, đó là sức mạnh của người tu”.
Để củng cố định lực, trợ giúp phòng hộ các căn, HT. Giác Nhân chỉ rõ, người xuất gia cần biết tiết độ trong ăn uống. Hòa thượng nhắc lại nếp sống Khất sĩ “nhất nhật nhất thực”, xem đó là pháp tu rất nhiệm mầu để điều thân, chế ngự dục. “Ăn để sống, chứ không sống để ăn. Hãy luôn quán niệm khi thọ thực, biết đủ, biết dừng”, Hòa thượng khẳng định, đồng thời khuyên người xuất gia nên tránh ngũ tân (hành, hẹ, tỏi, nén...) vì chúng làm tăng tham dục và sân hận.
.jpg)
Cuối thời pháp, HT. Giác Nhân sách tấn chư hành giả: “Pháp Khất sĩ không thiếu, chỉ sợ chúng ta không chịu học. Hãy lấy kệ pháp làm tấm gương soi tâm, vì người Khất sĩ được tôn trọng không phải vì học nhiều, mà vì phạm hạnh thanh tịnh”.
Một số hình ảnh được ghi nhận:
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)