Giáo đoàn VI PGKS: Hòa thượng Giác Điệp khuyến tấn chư hành giả về ý nghĩa của sự tu học

Trong không khí tinh nguyên của buổi sớm tại vườn thiền thuộc Tịnh xá Ngọc Như (xã Châu Thành, tỉnh Tây Ninh), sáng 11/12/2024 (22/10/Ất Tỵ), HT. Giác Điệp – Giáo phẩm Hệ phái, Tri sự phó GĐ.VI PGKS, Chứng minh khóa tu, đã có thời pháp sâu lắng nhắn nhủ đến chư hành giả về "ý nghĩa của sự tu học", mở đầu khóa "Sống chung tu học" lần thứ 30 của GĐ.VI PGKS.

Xoay quanh câu chuyện về Tôn giả Sa-nặc – một người có nhân duyên đặc biệt với Đức Thế Tôn, nhưng cũng là tấm gương lớn về sự chuyển hóa, một điển tích quý giá trong kinh tạng Nikāya, Hòa thượng nhấn mạnh: "Đạo Phật không phải chỉ để cầu nguyện, mà cốt lõi là thực tiễn tu học, là “sống chung – học chung – tu chung”. Đồng thời, con đường tu tập cũng đòi hỏi thiện duyên, mà theo Hòa thượng, trong đó quan trọng nhất là được nương tựa bạn lành và thầy tốt".

Nói về câu chuyện Tôn giả Sa-nặc, Hòa thượng kể lại, Sa-nặc vốn là người ở cạnh Thái tử Tất Đạt Đa, làm phu xe cho Ngài. Chính nhờ những lần đưa Thái tử ra ngoài hoàng cung, chứng kiến cảnh già - bệnh - chết, Thái tử phát khởi tâm xuất trần, quyết tìm ra con đường giải thoát cho muôn loài. Đêm xuất gia, cũng chính Sa-nặc là người đánh xe đưa Thái tử vượt thành, tạo nên một nhân duyên thù thắng được Đức Phật tán thán nhiều lần.

Khi Đức Phật thành đạo và trở về hoàng cung, nhiều người phát tâm xuất gia, trong đó có Sa-nặc. Tuy nhiên, tâm xuất gia của ông chưa thuần, còn mong cầu an ổn, kính trọng và vật chất.

Hòa thượng chỉ rõ những tập khí và lỗi lầm nối tiếp của Tôn giả Sa-nặc. Khi thấy Ngài Xá-lợi-phất và Ngài Mục-kiền-liên được cung kính, Sa-nặc sanh tâm ganh tỵ, nói lời không đúng pháp, bị Đức Phật quở trách, nhưng “tánh nào tật nấy”, ông vẫn tái phạm. Khi được cúng dường một miếng đất, Sa-nặc bèn hạ một cổ thụ lớn được dân chúng tôn kính để dựng cốc. Khi lợp ngói quá nặng làm sập thất, Sa-nặc tiếp tục bị rầy la. Sau, lại sắm giường ván lớn đẹp đẽ… và vẫn bị quở trách. Trong thâm tâm, Sa-nặc tự cho mình có công với Thái tử nên sanh tâm kiêu ngạo, xem thường đại chúng.

Trước lúc nhập Niết-bàn, Đức Phật dạy Ngài A-nan một phương pháp đặc biệt, đó là đừng quở trách Sa-nặc nữa, mà chỉ lặng lẽ không giao tiếp, không tiếp xúc, để ông tự soi lại mình. Lúc đầu Sa-nặc không để ý, nhưng rồi nỗi cô đơn, trống trải khiến ông buồn khổ, suy ngẫm. Ông nhớ đến Đức Phật, nhớ những lời dạy và phát tâm tu tập chân thành. Từ đây, Sa-nặc chứng được Dự Lưu – quả vị đầu tiên của Thánh đạo, dựa trên lòng tin tuyệt đối vào Phật - Pháp - Tăng. Tiếp đó, nhờ sự chỉ dạy của Ngài A-nan về Ngũ Uẩn và Bát Chánh Đạo, Sa-nặc nỗ lực tu tập và cuối cùng chứng được quả vị A-la-hán, đoạn tận mọi phiền não.

Qua đó, HT. Giác Điệp nhận định: "Câu chuyện Sa-nặc là bài học lớn về cái khổ của sinh - già - bệnh - chết, của chấp ngã và sự mê lầm. Nếu không có Tam Bảo, Sa-nặc sẽ mãi sống trong kiếp nghèo khổ và tiếp tục trôi lăn trong luân hồi. Chính nhờ gặp Phật, hiểu Pháp, nương Tăng, ông đã chuyển khổ thành an, chuyển tật xấu thành Thánh quả. Rõ ràng, Đức Phật không cần sự tôn kính của chúng ta, nhưng khi chúng ta lễ kính Ngài, tâm Phật trong chính chúng ta lớn dần lên. Người đạt quả vị Dự Lưu chỉ còn tối đa bảy lần sinh lạ, nghĩa là coi như đã vượt qua vòng tử sinh".

Từ đây, Hòa thượng nhấn mạnh với đại chúng về lòng tin tuyệt đối vào Tam bảo, vào con đường tu tập dẫn đến đoạn tận khổ đau, luân hồi. Theo Hòa thượng, để lòng tin được củng cố và ngày một phát triển, không gì khác hơn là phải thực hành giáo pháp một cách miên mật, tức thực hành Giới - Định - Tuệ.

HT. Giác Điệp giảng rõ, về "giới", người xuất gia cần giữ thân - khẩu - ý thanh tịnh, học cách thu thúc các căncho thuần thục. Về "chánh niệm và các căn", Hòa thượng dẫn câu chuyện về Ngài Bahiya khi xin Phật dạy pháp, Phật dạy: "Trong thấy chỉ là cái thấy, trong cái nghe chỉ là cái nghe",  tức là không để các căn đi xa, chỉ nhìn thôi, không cần phân biệt hình dáng hay màu sắc. Nhờ đó, Ngài Bahiya đã đắc quả A-la-hán ngay khi nghe pháp.

Về "quán ngũ uẩn", Hòa thượng chỉ dạy chi tiết: "Sắc - thân thuộc về Sắc, hợp thành từ Tứ Đại (đất, nước, lửa, gió), mà Tứ Đại không phải là của ta, nếu thấy Sắc là giả, là không, chúng ta sẽ không bị trói buộc; Thọ - cảm thọ (vui, buồn, không vui không buồn) cũng là do duyên hợp (như mắt nhìn cảnh đẹp hoặc nhìn xác chết), cảm thọ là giả dối, chỉ trong chốc lát, nằm trong vô thường, nhận ra cảm thọ vô thường sẽ thấy được vô ngã; Tưởng - chỉ là sự ghi nhận, không bền chắc; Hành - những tạo tác của thân - khẩu - ý; Thức - sự phân biệt luôn thay đổi, không phải tự ngã. Nhận ra năm uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) là không sẽ phá được cái ngã và hết bao nhiêu khổ ách. Sa-nặc chứng A-la-hán nhờ thấy rõ Ngũ Uẩn là không, kết hợp với sự hành trì Bát Chánh Đạo".

Cuối lời, từ câu chuyện Sa-nặc, Hòa thượng một lần nữa khuyến tấn đại chúng:  "Không ai là không thể tu. Không ai là không thể chuyển hóa. Nếu có lòng tin, có sự hành trì, thì ai cũng có thể tiếp bước Sa Nặc mà đạt đến an lạc ngay trong đời hiện tại. Giáo pháp của Đức Phật đã đầy đủ như thức ăn bày sẵn, điều quan trọng là chính chúng ta phải tự mình thực hành, mới mong dứt khổ và hướng đến giải thoát".

 

Một số hình ảnh được ghi nhận: