Kinh Ba ngọn lửa phụng thờ

Bud24wing

KINH TAM HỎA – TẠP A HÀM

Một thuở nọ Phật đang tại thế

Trên con đường phổ tế nhân sanh

Kiều-tát-la bước du hành

Về nơi Xá Vệ kinh thành hoằng dương

Cấp-cô-độc cúng dường tinh xá

Cùng Kỳ-đà một dạ kính dâng

Vườn cây che mát chư Tăng

Phật về an trụ những lần thuận duyên.

Lúc bấy giờ nơi miền phố thị

Có gia trang quyền quý tột cùng

Của tiền kho chất đầy vun

Trường Thân danh tiếng khắp vùng mến yêu

Cả dòng họ học điều đạo đức

Một hôm kia hợp lực họ hàng

Ông cho tổ chức tế đàn

Bảy trăm trâu đực cột hàng đều nhau

Những trâu cái, trâu con, dê béo

Những sinh linh kêu réo đầy sân

Sắp bày vật uống, thức ăn

Định đem bố thí mong tăng phước lành.

Nghe tin Phật chúng sanh giáo hóa

Dẫn một đoàn đến cả ngàn Tăng

Hiện đang an tịnh cõi trần

Đạo tràng tịnh xá ở gần tư trang.

Ông suy nghĩ trong hàng Thánh đức

Ngài Cồ Đàm là bực cao siêu

Trí minh hiểu biết mọi điều

Nếu cùng đàm luận sẽ nhiều mở mang.

Sáng hôm sau kêu đàn hậu học

Thắng cỗ xe quý tộc cao sang

Lọng che, bình bát nước vàng

Đến miền tịnh xá hỏi han pháp mầu.

Giữa pháp hội đê đầu đảnh lễ

Cầu Thế Tôn trí tuệ tột cùng

Vì điều lợi ích tu chung

Xin Phật dạy bảo để cùng thực thi.

Rằng: “Tế lễ đến kỳ dâng cúng

Sinh mạng kia cung phụng chư thần

Mọi điều thiếu sót chi chăng?

Sẽ về theo đó để hằng an vui”.

Đức Thế Tôn nghe lời thưa hỏi

Miệng mỉm cười rạng rỡ dung nghi

Như hoa nở giữa xuân thì

Ban hương tỏa ngát ngại gì gió đông.

Phật bèn dạy: “Này ông trưởng giả

Trên cuộc đời tính cả vua quan

Dù cho phú quý vô vàn

Hay người nghèo khổ cũng hàng chúng sinh

Vì nghĩ tưởng đến tình thân quyến

Sắm lễ này để nguyện phước ban

Nếu không hiểu biết làm ngang

Không sanh phước báu lại sang ác đồ.

Khi tế lễ mà thờ ba loại

Đao kiếm nào cũng hại như nhau

Thật là tội lỗi biết bao

Không sanh hạnh phúc lại vào tai ương.

Loại thứ nhất đao gươm ý nghĩ

Tội lỗi này trong ý phát ra

Nghĩ rằng phải cúng thịt thà

Nhuốm dòng máu đỏ mới là lễ nghi

Nghĩ như thế ngại gì sinh mạng

Ác vào lòng đành đoạn ra tay

Thịt kia đem cúng, đem bày

Nào hay sát nghiệp từ rày tăng lên.

Loại thứ hai trên nền khẩu nghiệp

Đao kiếm này gián tiếp lệnh ban

Xúi người làm chuyện trái ngang

Sát sanh hại vật lập đàn đầy sân

Do sai bảo người thân kẻ lạ

Oán thù sanh tai vạ khắp nơi

Oan gia vay trả trọn đời

Đau gươm khẩu nghiệp qua lời ác kia.

Loại thứ ba không lìa thân nghiệp

Đao kiếm này trực tiếp ta gây

Sát sanh chẳng biết nương tay

Giết rồi xào nấu đem bày vái van

Trong nhang khói oán than đau khổ

Tội sát sanh không chỗ nào tha

Chúng sanh trong bể ái hà

Nghĩ đang tạo phước, nhưng là tội gây”.

Phật lại khéo khuyên bày phân tỏ:

“Bà-la-môn phải rõ thời duyên

Tùy thời bổn phận cho siêng

Cúng dường ba loại lửa thiêng vô cùng

Khi lễ bái việc hung hóa kiết

Ba lửa kia tinh khiết vô vàn

Trong ngoài hưởng phước bình an

Cuộc đời sung túc muôn ngàn thơm hương.

Lửa thứ nhất cúng dường cha mẹ

Vì thân này mẹ đẻ, cha nuôi

Ơn kia như biển, như trời

Phải nên báo hiếu suốt đời chớ quên,

Loại lửa này gọi tên Căn bản

Mẹ cha làm nền tảng cho con

Dưỡng nuôi thân thể hao mòn

Một đời vất vả vẫn còn chưa nguôi.

Lửa thứ hai niềm vui xiết kể

Nghĩa anh em như thể tay chân

Vợ chồng cho đến lục thân

Bạn bè, quyến thuộc, kẻ ăn, người làm

Đem vật thực cho nam, cho nữ

Nuôi mạng chung gọi chữ Cư gia

Vì cùng sống một mái nhà

Chia bùi, sẻ ngọt đều là người thân.

Lửa thứ ba cúng dâng phước thí

Hàng sa môn tùy hỷ chứng minh

Nhiếp lòng theo luật, theo kinh

Tham sân đoạn tuyệt, ái tình dứt tiêu

Hàng Tăng chúng giới điều trong sạch

Hòa hợp tu, nhân cách thanh bần

Lập thành giáo hội chư Tăng

Thế gian ruộng phước để hằng gieo sâu.

Ba loại lửa phải hầu cung kính

Tùy thời duyên phụng tín cúng dường

Phải luôn thờ tự dựa nương

Gia môn hạnh phúc, bốn phương thái hòa”.

Khi dạy xong trên tòa pháp báu

Đức Thế Tôn dùng kệ thuyết rằng:

“Lửa thiêng ba loại phước

Căn bản và cư gia

Lửa phước điền gieo tạo

Quả lớn thật hằng sa.

Luôn luôn phải cung kính

Cúng dường ba lửa này

Hiện đời được an lạc

Không tội lại phước sanh.

Những người có trí tuệ

Sanh đời luôn hằng vui

Không gây thêm nghiệp ác

Nghiệp thiện mãi vun bồi.

Vui pháp hội mở bày

Cúng dường nơi đáng cúng

Đời này được tiếng thơm

Đời sau sanh cõi trời”.

Phật lại dạy thêm lời từ mẫn:

“Nếu trước kia thờ sẵn lửa phàm

Si mê, sân hận, tham lam

Lửa này cháy rực và làm hại nguy

Tự hại mình bởi vì tà kiến

Thêm hại người diễn biến gớm ghê

Đời nay mắc tội trăm bề

Đời sau cũng tội chẳng hề khác nhau.

Vì duyên tội héo xào thân xác

Nỗi buồn lo việc ác khổ sầu

Tham, sân, si lửa bền lâu

Phải mau dập tắt để hầu an vui”.

Nghe Phật dạy bùi ngùi trong dạ

Bà-la-môn hiểu cả nguồn cơn

Nghĩ suy tội phước nào hơn

Bảo con về mở oán hờn sát sanh

Đem thả hết sinh linh đang nhốt

Cho phóng sanh chặt cột buộc ràng

Dắt ra giữa chốn rừng hoang

Cho bầy gia súc khải hoàn tự do.

Thấy trưởng giả biết lo tội lỗi

Đức Thế Tôn rất đỗi vừa lòng

Ngài đem giáo pháp mênh mông

Từ bi khéo thuyết vào lòng thiện nam

Như lụa trắng dễ làm hàng nhuộm

Dùng đủ màu thắm đượm thân tâm

Tự thân đắc pháp thậm thâm

Trường Thân đảnh lễ trăm năm kiếp người

Nơi Tam bảo một trời quý kính

Xin quy y thành tín trọn lòng

Kiếp này tâm đã sạch trong

Nguyện thành Phật tử để mong hưởng nhờ

Và cầu thỉnh đến giờ trai ngọ

Ngày hôm sau xin thọ đàn trai

Tại nhà cư sĩ sớm mai

Vâng hành phụng sự lễ bày tịnh thanh.

Phật im lặng viên thành ý nguyện

Cư sĩ về lo chuyện trai nghi

Thức ăn chẳng thiếu món gì

Cúng dường Tam bảo chứng tri phước này.

Sáng hôm sau vào ngày sớt bát

Cả Tăng đoàn theo Phật khoai thai

Gót sen từng bước nối dài

Vào nhà cư sĩ thọ trai một lần.

Sau trai ngọ hiện thân thuyết pháp

Đức Thế Tôn nói hạp căn cơ

Soi tâm, sáng trí mọi thời

Cho người nghe hưởng những lời Thánh nhân.

Sau thời pháp Tăng thân dời bước

Theo Thế Tôn lần lượt du phương

Chia nhau khắp mọi nẻo đường

Pháp mầu như ánh vầng dương giữa trời.

Mùa Hạ PL. 2560, Pháp viện Minh Đăng Quang

Mùng 07 tháng 06 năm Bính Thân (09/07/2016)