Kinh Khóa Hư - Quyển Thượng

Tinhhoabiyeu

 KINH KHÓA HƯ

QUYỂN THƯỢNG

Xét đến ngọn nguồn:

Tứ đại vốn là không,

Ngũ uẩn cũng chẳng có.

Do không khởi vọng, vọng thành ra sắc, sắc thiệt tự chơn không;

Bởi vọng theo không, không lại hiện vọng, vọng mới ra mọi sắc.

Đã trái lẽ không sanh, không hoá,

Nên mãi thành có hóa, có sanh.

Hoặc sanh Thánh, Hiền, khôn, dại,

Hoặc sanh sừng, vảy, cánh, lông.

Chìm đắm ở bến mê hòai,

Lênh đênh trong bể khổ mãi.

Lờ mờ mù mịt, có biết chi đâu,

Luống cuống luồng cuồng, không sao tỉnh được,

Hết thảy đều phóng tâm lạc đi,

Không ai hay quay đầu trở lại.

Mặc kệ cho: Qua lại sáu đường,

Xuống lên bốn núi.

Bốn núi là gì ?

Tức là sanh, già, bịnh, chết.

Nay xin bàn rõ bốn núi, để cho sau này cùng soi.

 

Kệ Bốn Núi

Bốn non muôn bụi xanh rì,

Tỉnh ra muôn vật có gì gì đâu ?

Con lừa ba cẳng ruổi mau,

Ta vui cỡi nó lên đầu núi cao.

 

TỪNG NÚI THỨ NHẤT

Tầng núi thứ nhất,

Ví thể tướng sanh.

Chỉ vì một niệm nghĩ sai,

Cho nên hiện ra nhiều mối.

Hình hài mượn tinh cha mẹ,

Sanh sản nhờ khí âm dương.

Trong tam tài con người đứng giữa,

Trong vạn vật, con người chí linh.

Chẳng kể bậc trí, hay người ngu, đều ở trong bào thai tất cả;

Chẳng kể một người, hay muôn họ, đều về túi kiền khôn như nhau.

Hoặc là mặt trời, rõ triệu vua Thánh giáng sanh;

Hoặc là các sao, ứng điềm tôi hiền xuất hiện.

Ngọn bút văn chương, quét sạch thế trận nghìn quân;

Mưu mô võ lược, thu được chiến công trăm trận.

Trai khoe dáng tươi ném quả,

Gái khoe vẻ đẹp nghiêng thành.

Một cười đổ nước người,

Hai cười nghiêng thành người.

Ganh danh khoe đẹp,

Tranh lạ đấu kỳ.

Xem ra không lọt lưới luân hồi,

Đáo để vẫn trong vòng sanh hoá.

Tướng sanh người thế,

Ví thể mùa xuân.

Mọi vẻ đều thảy thạnh hưng,

Muôn vật đều thảy tươi tốt.

Một trời sáng đẹp, nơi nơi hoa thắm liễu xanh;

Muôn dặm phong quang, chốn chốn oanh kêu bướm liệng.

Kệ Rằng:

Thợ tạo rèn nên vạn tượng hình,

Không đầu không mối cũng không manh.

Lạc lầm: có niệm quên không niệm,

Trái lẽ: không sanh chịu có sanh.

Mũi, lưỡi đã ham hương với vị,

Mắt, tai lại đắm sắc và thanh.

Phong trần lưu lạc dài làm khách,

Ngày cách quê hương vạn dặm xanh.

 

TỪNG NÚI THỨ HAI

Tầng núi thứ hai,

Ví thể tướng già.

Hình dung dần đổi,

Khí huyết đã suy.

Tướng thì tuổi lớn hình khô,

Ăn thì hết nghẹn lại vướng.

Tóc xanh, má hồng, giờ biến đổi da gà, tóc hạc;

Áo hoa, ngựa trúc, nay phải dùng xe bồ, gậy cưu.

Dầu có mắt sáng như Ly Lâu, coi sắc khôn rõ;

Hoặc có tai thính như Sư Khoáng, nghe tiếng khó hay.

Tiều tụy như liễu sang thu,

Rã rời như hoa đầu hạ.

Như mặt trời sắp gác Tây sơn,

Như nước xuôi rót về Đông hải.

 

Tướng già người thế,

Ví thể mùa hè.

Nóng sôi tảng đá, muôn vật đều khô,

Nắng hét chảy vàng, trăm sông hầu cạn.

Hoa tàn liễu nhạt, trong vườn bên lạch thấy còn đâu;

Bướm nhởn oanh bay, dưới lá đầu cành đà sắp cỗi.

Kệ Rằng:

Đời người bọt nổi khác chi đâu,

Thọ yểu trời xui chớ vọng cầu.

Cảnh tựa tang du hầu đến tối,

Thân như bồ liễu tạm qua thâu.

Phan Lang bữa trước xanh chòm tóc,

Lữ Vọng ngày nay bạc mái đầu.

Man mác sự đời thôi mặc kệ,

Bóng chiều gác núi nước trôi mau.

 

TỪNG NÚI THỨ BA

Tầng núi thứ ba,

Ví như tướng bịnh.

Tuổi đến cõi già,

Bịnh ngày thêm nặng.

Chân tay mỏi mệt, mạch lạc khó thông,

Xương cốt long bong, nhiệt hàn chẳng thích.

Sai cả cái tánh chân thường,

Mất hết cái nguồn thư sướng.

Đứng ngồi khó nhọc,

Co duỗi đau ê.

Mạng tựa ngọn đèn trước gió,

Thân như bọt nổi mặt sông.

Trong lòng hiện ra ma xó,

Mắt nhìn thấy những hoa không.

Hình hài gầy yếu, ai là Biển Thước chữa cho;

Sức vóc suy vi, ai là Lư Nhân cứu hộ?

Bạn bè luống công thăm viếng,

Anh em nhọc sức phò trì.

Bịnh nặng hằng tháng chưa thuyên,

Cảm xoàng hằng tuần chưa khỏi.

Tướng bịnh người thế,

Ví thể mùa thu,

Vừa buổi mù sương mới xuống,

Tới kỳ hoa cỏ đều tan.

Cây xanh rừng rậm, gió vàng một trận thấy lơ thơ;

Ngàn biếc non xanh, móc ngọc vừa sa thêm lạnh lẽo.

Kệ Rằng:

Âm dương tội phước lẽ xoay vần,

Nên khiến tai nàn báo thế nhân.

Phàm hễ có thân là có bịnh,

Nếu mà không bịnh, cũng không thân.

Trường sanh lầm tưởng đơn làm thuật,

Bất tử không đem thuốc trở xuân.

Xa lánh cõi ma đi sớm quách,

Trở về nuôi lấy tánh thiên chân.

 

TỪNG NÚI THỨ TƯ

Tầng núi thứ tư,

Ví như tướng chết,

Bịnh càng trầm trọng,

Mạng mới cáo chung.

Già nua những hẹn tuổi trăm năm,

Thân thế lại thành ra giấc mộng.

Thông minh khôn giỏi, khó đương đại hạn có ngày;

Mạnh khoẻ oai hùng, khôn chống vô thường đến lúc.

Vợ trinh hầu thuận, trở nên độc địa thảm thương;

Em kính anh nhường, phút đã trọn đời cách biệt.

Vật mình lăn đất,

Đập sọ kêu trời.

Tường hoa nhà rộng có làm chi,

Kho ngọc đống vàng vô dụng hết.

Dạ đài khép kín, luống nghe gió bấc vì vèo;

Tuyền hộ đóng bưng, chỉ thấy mây sầu ngùn ngụt.

Tướng chết người thế,

Ví thể mùa đông.

Trời đất cùng Thái tuế hết vòng,

Nhựt nguyệt tới Huyền hư hội họp.

Âm tinh cực thịnh, một vùng mưa tuyết xuống tơi bời;

Dương khí dần tàn, tám nước giá tuôn càng lạnh lẽo.

Kệ Rằng:

Gió cuồng quét đất phút lung lay,

Thuyền lật ông chài lúc rượu say.

Bốn phía mây lồng, màu tối sẫm,

Một làn sóng gợn, tiếng vang vầy.

Gót mưa đòi trận lần xô đẩy,

Xe sấm bao vòng vội trở xây.

Cát bụi bên trời khi tạm sạch,

Sông dài, trăng lặn mấy canh chầy?

 

BÀN VỀ SẮC THÂN

Các người ơi !

Gốc khổ là thân,

Nhân nghiệp là chất.

Nếu cứ lấy thế làm thật,

Tức là nhận giặc làm con.

Người nên xem lại kỹ càng:

Thân này trước khi đầu thai, nơi nào thấy có;

Niệm nọ gặp hồi duyên khởi, ngũ uẩn hợp nên.

Vọng sanh thể mạo,

Giả hiện hình dung.

Quên cỗi gốc thực,

Hiện hão huyền xằng,

Hoặc gái hoặc trai,

Hoặc tươi hoặc xấu.

Đều là phóng tâm đi mất,

Tịnh không lui gót trở về.

 

Giong ruổi đầu đường sanh tử,

Bỏ quên mặt mắt Như Lai.

Bởi vậy chỉ nhìn ngoài mặt,

Nào ai đoái nghĩ trong thân.

Kịp thời sanh đã hóa sanh,

Đến chốn mộng còn nói mộng.

Rập rờn cuồn cuộn,

Bối rối loay hoay,

Lấy “ảo” làm “chân”,

Trái “không” theo “sắc” !

Cán xương khô cài hoa điểm ngọc,

Túi da bẩn đeo xạ xông lan.

Cắt lương the bọc bao máu mủ,

Xâu hoa hột đeo ống phân tro.

Ngoài dầu trang điểm lịch xinh,

Trong vẫn trược nhơ ghê gớm.

Không biết tự xét sượng sùng,

Lại cứ vì thân quyến luyến.

Các người ơi !

Dường như tượng gỗ máy quay,

Chỉ tựa sợi tơ lôi kéo.

Quanh đi quanh lại, vẫn cùng lối sanh,

Khi phóng khi thâu, khác chi xác chết.

Tự gây muôn cách so kè,

Đều bởi sáu căn tranh lộn.

Già, bịnh, chết, chẳng sợ đeo theo,

Tửu, sắc, tài, cứ tham đắm mãi.

Cầu cạnh đầu ruồi tai ếch,

Cam tâm lợi buộc danh ràng.

Ban ngày hết sức cầu may,

Buổi tối hóa ra tưởng mộng.

Chất chứa nghiệp trần như giếng,

Biết đâu mái tóc tựa sương.

Một mai vướng mắc bịnh trầm,

Trăm năm đều về mộng lớn.

Tim gan đau xót, tựa nỗi oán thù,

Da thịt hao mòn, khác chi ma đói.

Còn muốn cầu thọ thân thọ mạng,

Nào hay đâu hại vật hại sanh.

Những mong một kiếp tựa thông già,

Chẳng hiểu tứ chi như nhà dột.

Hồn vía tạm về lối quỉ,

Xác thây còn bỏ cõi người.

Tóc, lông, răng, móng, chưa kịp tiêu,

Nhớt, dãi, bọt, hơi, đà thấy ứa.

Mục nát chảy ròng máu mủ,

Tanh hôi lừng lẫy đất trời.

Đen rợp mắt chẳng dám nhìn,

Xanh lè tâm thiệt đáng sợ.

Chẳng cứ giàu nghèo,

Cũng đều chết mất.

Để trong nhà thì ruồi bu, bọ rúc,

Bỏ ngoài đường thì quạ rỉa, chó tha.

Người đời đều bịt mũi mà qua,

Con hiếu phải lấy nong mà đậy.

Thịt xương bừa bãi,

Thâu nhặt vùi chôn.

Săng bó mặc, một sao lửa nội,

Nấm mồ chôn, muôn dặm non hoang.

Xưa còn tóc mượt má hồng,

Nay đã tro tàn xương trắng.

Khi mưa lệ tưới mây mờ mịt,

Lúc gió sầu lay nguyệt rạng suông.

Khi tàn canh quỉ khóc thần sầu,

Lúc lâu năm ngựa quần trâu phá.

Lửa đốm lập loè bờ cỏ rậm,

Tiếng sâu rền rĩ ngọn dương trơ!

Bia kỷ niệm nửa mờ rêu phủ,

Kẻ mục tiều dày đạp đường ngang.

Xưa dẫu văn chương tót chúng, hay như tài sắc nghiêng thành;

Đến kỳ nào có khác đường, rốt mức là cùng một nước.

Mắt bị sắc, lôi về rừng kiếm;

Tai theo tiếng, dẫn đến non đao.

Mũi thường ngửi hít khói hôi tanh,

Lưỡi phải nếm ăn viên sắt nóng.

Giội nước đồng sôi thân co quắp,

Bỏ vào vạc nấu ý chua cay.

Trăm năm trong cõi người ta,

Một ngày cõi ngục kể đà dài ghê.

Nếu ai đủ mắt tinh đời,

Phải kíp hồi tâm xem lại.

Cất mình vượt qua biển sanh tử,

Dang tay xé toạc lưới ái ân.

Chẳng nề trai gái, ai cũng nên tu;

Chẳng cứ trí ngu, đều có phước phận.

Nếu chưa thấu tâm Thầy, ý Phật;

Trước hãy chăm trì Giới, niệm Kinh.

Kịp đến lúc Phật cũng không, Thầy cũng không;

Thì hết biết giới nào trì, Kinh nào niệm.

Trong ảo sắc cũng là chân sắc,

Khiến phàm thân hóa thiệt pháp thân.

Phá sáu giặc làm sáu phép thần thông,

Biến tám khổ ra tám điều tự tại.

Nói vậy nhưng:

Người đã vướng vào thân huyễn sắc,

Bỏ được đâu, dính mắc lỡ rồi.

Hỡi này các Phật tử ơi,

Sắc thân ấy khó vô hồi thoát ly.

Nếu chưa thoát, nên nghe bài kệ:

Khối thịt chơn nhơn biết ở đâu,

Hoàng hay là trắng chớ lừa nhau.

Ai hay mây cuốn trong không tịnh,

Móc biếc bên trời dạng núi cao.

Ôi ! Đời chỉ biết vàng là quí, nhưng xét kỹ đến chỗ khinh trọng thực không được bằng mạng người. Ví dụ như một nhà giàu kia, lên làm quan đại tướng, dùng vàng dát vào áo giáp để hộ thân, đến khi chiến trận, đang lúc đao binh giao tiếp có khi phải cởi giáp, vứt gươm mà chạy, chỉ mong cho toàn một thân thôi, còn áo giáp vàng rồi đâu nhìn đến. Thế mới biết vàng tuy là trọng, cũng không thể ví với mạng người là nghĩa thế đó. Nay không hiểu thế, lại quí vật mà rẻ thân. Chẳng biết thân mình có ba điều khó gặp. Những điều gì là ba?

MỘT LÀ: Ở trong sáu đường chỉ người là quí, đến khi tịnh lạc về âm, tối tăm mờ mịt, chẳng biết đường đi. Hoặc vào những ngả: địa ngục, a tu la, súc sanh, ngạ quỉ, chẳng được làm người; ấy là một điều khó gặp đó.

HAI LÀ: Tuy được làm người, sanh nơi mọi rợ, tắm cùng một vũng, ngủ cùng một giường, sang hèn ở lẫn, trai gái nằm chung, chẳng đượm gió nhân, không nhuần phép Thánh; ấy là hai điều khó gặp đó.

BA LÀ: Đã được sanh nơi văn hoá, sáu căn chẳng đủ, bốn thể không tuyền, mù điếc ngọng câm, thậm thọt còng ưỡn, miệng mũi tanh hôi, thân hình thúi lở, thầy chẳng cho tới, chúng chẳng dám gần. Tuy ở trong nơi thanh lịch, cũng như ngoài cõi hoang cùng; ấy là ba điều khó gặp đó.

Nay được làm người, sanh nơi văn hoá, sáu căn toàn vẹn, há chẳng quí sao?

Khắp mặt người đời, cứ mài miệt trong vòng danh lợi, làm nhọc cả xác, mà thương cả thần. Thân mạng là rất trọng mà nỡ bỏ, của cải là rất khinh mà lại tham. Ví với kẻ ăn bánh quên vợ, ngậm cơm quên mép, có khác gì không?

Ấy, thân mạng tuy là chí trọng thật, song cũng chưa trọng bằng chí đạo kia. Thế cho nên Khổng Phu Tử có câu rằng: “Sớm nghe đạo, tối chết cũng cam”. Ông Lão Tử có câu rằng: “Ta có sự lo lớn, là vì ta có thân”. Đức Thế Tôn cầu đạo xả thân cứu hổ, thế chẳng phải là ba đấng Thánh đều khinh thân mà trọng đạo đó sao? Than ôi ! Thân mạng là rất trọng, mà còn nên bỏ để cầu lấy cái “đạo” rất hay, phương chi vàng ngọc châu báu là rất khinh, tiếc làm gì nữa?

Ôi ! Trong ấp mười nóc nhà còn có người trung tín, nữa là khắp mặt người đời, lẽ nào lại không có ai thông minh sáng suốt hay sao? Nếu nghe lời này, phải nên chăm học, đừng có ngờ chi. Kinh có câu rằng: “Một mất thân người, muôn kiếp chẳng lại”, đáng đau đớn xiết bao ! Thế cho nên Khổng Phu Tử có câu rằng: “Người mà không chịu làm, ta cũng chẳng làm sao được” chính là thế đó...

KHUYÊN PHÁT TÂM BỒ ĐỀ

Rõ là:

Quang cảnh trăm năm, chỉ trong phút chốc;

Thân ảo tứ đại, há đặng dài lâu.

Càng ngày càng đắm bể trần,

Mỗi sớm mỗi vương lưới nghiệp.

Chẳng biết một tánh tròn sáng,

Luống đua sáu căn vẩn vơ.

Công danh rất mực, khác chi đại mộng một trường;

Phú quí kinh người, khó lánh vô thường hai chữ.

Tranh nhơn tranh ngã, kết cuộc thành không;

Khoe giỏi khoe tài, kỳ cùng chẳng thực.

Gió lửa tan tành không già trẻ,

Núi khe mòn mỏi mấy anh hùng !

Đầu xanh chưa mấy mà tóc bạc đã pha,

Kẻ mừng vừa qua mà kẻ viếng đã tới.

Một bao máu mủ, lâu năm quyến luyến ân tình;

Bảy thước xương hom, mặc sức tham lam tiền của.

Thở ra khôn hạn thở vào,

Buổi sáng chẳng gìn buổi tối.

Sông thương chìm nổi buổi nào thôi,

Nhà lửa nấu nung bao thuở hết.

Chẳng muốn rời xa lưới nghiệp,

Chỉ vì chưa có công phu.

Vua Diêm La rẽ đất lại đòi,

Ông Thôi Tướng nào dung rộng hạn.

Ngoảnh cổ người nhà nào có thấy,

Tự mình lưới nghiệp phải sa vào.

Quỉ vương ngục tốt, mặc họ khảo tra,

Cây kiếm núi đao, bó tay không gỡ.

Hoặc giam dưới núi ốc tiêu,

Hoặc ở trong non vây sắt.

Bị vạc dầu, thì muôn tử ngàn sanh,

Phải chém chặt, thì một dao hai đoạn.

Đói ăn sắt nóng,

Khát uống nước đồng.

Mười hai giờ, cam chịu đắng cay,

Năm trăm kiếp, thấy đâu hình bóng.

Chịu đủ tội nghiệp,

Lại bị luân hồi.

Mất hẳn thân người thuở trước,

Đổi ra hình vóc hồi này.

Giắt lông đeo sừng,

Đội yên ngậm sắt.

Lấy thịt nuôi người,

Dùng mình trả nợ.

Sanh bị khổ về dao thớt,

Sống bị nạn những lửa nồng.

Cùng thù oán lẫn,

Cùng nuốt thịt nhau.

Bấy giờ biết hối,

Học đạo không đường.

Chi bằng phải đảm đang ngay,

Đừng để qua đời này lỡ.

Phật Thích Ca, bỏ cung vua thẳng tới Linh san;

Ông Bàng Công, đem gia tài ra dìm bể cả.

Chân Võ chẳng chịu làm Vua, chỉ chăm học đạo;

Lã Ông tu đã thành Tiên, còn mộ Phật Đà.

Tô Học Sĩ thường thân Phật Ấn.

Hàn Văn Công phải kính Đại Điên.

Bùi Công cướp thẻ Thạch Xương,

Phòng Tướng hỏi phép Quốc Nhất.

Diệu Thiện không kén phò mã, thành Phật tức thì;

Lục Tổ mới gặp khách nhân, nghe Kinh sực tỉnh.

Đạo thiền nếu không thú vị,

Thánh Hiền sao chịu qui y,

Hoa Lâm khiến hai hổ cảm theo,

Đầu Tử có ba chim báo sáng.

Lý Trưởng giả giải nghĩa kinh, mà Thiên Trù cúng cổ;

Tu Bồ-đề ngồi nhập định, mà Đế Thích tung hoa.

Đạt Mạ xách giày về Tây,

Phổ Quang khua chuông bay bổng.

La hán lại hỏi đạo Hòa thượng Ngưỡng Sơn,

Nhạc Đế xuống thọ giới Thiền sư Tư Đại,

Kính Sơn đến nay còn được Long Vương dâng cúng;

Tuyết Phong từ trước hay sai người gỗ khai san.

Ấy đều nhân do đã nghiệm,

Đừng sanh chán nản mà lui.

Cáo đồng còn nghe pháp Bách Trượng,

Ốc vặn còn hộ Kinh Kim Cương.

Mười nghìn cá nghe hiệu Phật hóa làm Thiên tử,

Năm trăm dơi nghe tiếng Pháp đều nên Thánh Hiền.

Trăn nghe Sám mà sanh lên trời,

Rồng nghe Kinh mà hiểu tới đạo.

Ấy vật còn hay tự ngộ,

Sao người mà chẳng hồi tâm?

Hoặc cứ cắm cổ nhai cơm, mà suốt đời bỏ lỡ;

Hoặc bị tu hành lạc lối, mà đạo chánh chẳng tin.

Hay đâu Bồ-đề giác tánh, người thảy viên thành;

Nào rõ Bát nhã căn lành, ai ai vẹn đủ.

Chẳng cứ đại ẩn, tiểu ẩn,

Chẳng kể tại gia, xuất gia.

Hỏi chi Tăng tục, chỉ cốt tỏ tâm,

Nguyên chẳng nữ nam, sao nên nệ tướng.

Người chưa hiểu càng chia tam giáo,

Hiểu đến nơi cùng thấu nhất tâm.

Nếu hay phản bổn hòan nguyên,

Đều được kiến tánh thành Phật.

Phương chi:

Pháp Phật khó tìm,

Thân người dễ mất.

Muốn vượt bánh xe lục đạo,

Chỉ có đường tắt nhất thừa.

Nên cầu chánh kiến,

Đừng tín tà sư.

Hiểu hẳn mới có chỗ vào,

Tu được mới hay thoát tục.

Vững bước theo lối thiết thực,

Ngay đầu đội phép hư không.

Dùng ra thì muôn cảnh đều phô,

Buông xuống thì mảy trần chẳng vướng.

Vượt tới nơi sanh tử chẳng dè,

Thấu tới chốn quỉ thần khôn tỏ.

Hoặc phàm hoặc Thánh, vẫn chung một đường,

Ai oán ai thân, cũng cùng một mũi.

Thực tỉnh như thế,

Còn trệ giữa đường.

Nói chi tam huyền bậc trên,

Cốt tính một nước sau đó.

Hãy nói ngay đây, gì là một nước sau đó?

Này:

Núi nơi thấp xuống trông trời rộng,

Sen lúc đâm bông ngửi nước thơm.