Kỷ yếu Tưởng niệm cố Ni trưởng - kỳ 3

NI SƯ TRẠNG LIÊN

TX. Ngọc Phương

KÍNH DÂNG THẦY

Trước Chánh Điện hoa thơm tươi đẹp,

Thầy mong con phụng hiệp triển khai,

Nối truyền Chánh Pháp Như Lai,

Phá mê dẹp ác mỗi ngày tiến tu.

Tu là sửa đèn lu khơi sáng,

Trước sửa mình dẫn bạn trau tâm,

Sáu căn phòng hộ sai lầm,

Tán dương bạn tốt suy tầm lý sâu.

Lời Thầy dạy, trèo cao vấp ngã,

Làm việc gì vất vả học khôn,

Tu chơn chánh pháp vuông tròn,

Đối diện cẩn thận khéo khôn đạo thành.

Tu giải thoát công minh chánh trực,

Gắng học hành kinh, luật lưu thông,

Giới luật khắc kỷ nơi lòng,

Hoằng dương Chánh pháp thoát vòng tử sanh.

Con nên nghĩ chung quanh người tốt,

Chỉ sợ ta học dốt hiểu lầm,

Pháp Phật cao rộng thậm thâm,

Con cần nghiên cứu sưu tầm đạo sâu.

Tu thiền quán nương nhau đức độ,

Trước cứu mình giải khổ nhơn sanh,

Lìa danh xa ác bỏ tranh,

Niết bàn vô chấp nghĩa tình đạo cao.

Ngày kỷ niệm trước sau đoàn kết,

Nhớ ơn Thầy phụng hiệp lo chung,

Tuyên dương Chánh pháp thương đồng,

Thoát vòng sanh tử, nối dòng Thích Ca.

Thầy con đã lìa xa trần thế,

Đệ tử con không thể lướt qua,

Cúi xin Phật tổ Thích Ca,

Thầy con hóa kiếp Ta bà độ sanh.

Kính lạy Phật, công minh tốt đẹp,

Thương chúng con phụng hiệp cúng Thầy,

Tấm lòng giải thoát vươn khai,

Giảng Kinh thuyết pháp mặc ai coi thường,

Ngày kỷ niệm cúng dường Thầy, Tổ,

Tâm tịnh thanh khai ngộ giác chơn,

Mọi người tỉnh giấc biết ơn,

Vâng lời nhẫn nhịn hoa thơm dâng Thầy.

Pháp Khất sĩ Phật, Thầy vận chuyển,

Đệ tử hành dũng tiến phát huy,

Văn hay ý đẹp của Người,

Đường đạo Chánh pháp dâng Thầy chứng minh.

 

NI SƯ GIÁC LIÊN

Trụ trì Tịnh xá Phước Hải, Vĩnh Long

TƯỞNG NIỆM CỐ NI TRƯỞNG

- Kính lễ chư Phật mười phương ba đời

- Kính lễ cửa Khất sĩ đường Như Lai

- Kính lễ Tổ sư Minh Đăng Quang

Hôm nay Lễ tưởng niệm lần thứ 30 cố Ni trưởng đệ nhất Trưởng Ni giới Hệ phái Khất sĩ Việt Nam. Con, pháp tử Thích Nữ Giác Liên, cùng quý Ni trưởng, Ni sư và chư Phật tử hiện diện thành kính đê đầu đảnh lễ giác linh Cố Ni trưởng Đệ nhất, đã xả báo thân, Cao đăng Phật quốc ngày 19 tháng 3 năm Đinh Mão.

Chúng con mất đi vị hướng đạo Sư phi thường nhẫn nại, chúng con cảm thấy bơ vơ trên đường hoằng pháp lợi sanh. Thầy như mặt trời rực chiếu mang hơi ấm cho muôn người. Thầy là đèn hiện tướng, là ánh sáng ban cho chúng con. Thầy là thuyền bát nhã vĩ đại, luôn chuyên chở chúng con, luôn che chở cho nhân loại, cô nhi, quả phụ…

Thầy là nhà thơ tuyệt tác, yêu dân, yêu nước, trước khi xả báo thân với lời thơ hy hữu:

“Nguyện xin hiến trọn đời mình,

Cho nguồn Đạo Pháp, cho tình quê hương”.

và lời dạy cuối cùng của bậc Thầy cao cả:

“Ngày đã cận cần tu gấp rút,

Giới giữ sao trong sạch như xưa.

Định, Huệ không thiếu không thừa,

Lợi ích dân chúng đúng vừa khả năng”.

Lời pháp nhũ của Thầy như sóng tràn mặt biển, như chuông ngân vang dội khắp trần gian.

Thầy ơi!

Tử biệt sanh ly lắm đoạn trường!

Thầy đi trò ở, lệ sầu vương,

Ngàn đời ánh mắt, bờ mi khép,

Chuông giác thôi ngân bặt giảng đường!

Phút cuối Thầy đi chuyến lữ hành,

Tang thương trùm khắp cả trời xanh.

Rưng rưng vầng nhật treo lơ lửng,

Trăng khuyết nghìn thu khó kết thành!

Dẫu biết rằng luật vô thường hữu hình hữu hoại, chuyến lữ hành Thầy về Phật quốc, chúng con, đoạn trường đối cảnh! Tử biệt sanh ly! Từng phút nghe hồn giãy chết, bâng khuâng cúi mặt bóng đêm dài. Thầy là sứ giả Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai, đã làm tròn sứ mệnh Như Lai. Riêng chúng con cách xa vị Thầy cao cả.

Ni trưởng ra đi biệt bóng hình,

Lệ sầu còn động mắt môn sinh,

Đắng cay nếm vị mùi sinh tử,

Phút cuối than ôi! Lệ thấm tình!

Kính bạch Ni trưởng, đệ tử chúng con luôn nhớ ơn Tổ thầy, quý Ngài để lại di sản cho chúng con bằng Thuyền trí huệ, bằng giáo lý Khất sĩ muôn đời bất diệt. Chúng con y giáo phụng hành. Nguyền hành Như Lai sứ, tác Như Lai sự, làm đẹp đạo tốt đời, trước khi dứt lời xin kính chúc quý Ni trưởng, Ni sư cùng chư huynh đệ và Phật tử thân tâm thường lạc.

Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ tát.

Tịnh xá Phước Hải, ngày 30 tháng 3 năm 2017

 

NI SƯ MINH LIÊN

TX. Ngọc Phương

VIÊN THÀNH HẠNH NGUYỆN

Lễ tưởng niệm ngày Thầy viên tịch,

Ba mươi năm vắng biệt tôn nhan.

Chúng con vẫn cứ mơ màng,

Thầy thường qua lại độ an muôn loài.

Bằng chất liệu tâm bi rộng lớn,

Làm thuyền từ chuyên chở Nữ lưu.

Tổ Sư khen ngợi hạnh tu,

Tâm nguyền Bồ tát lòng từ độ sanh.

Kể từ đây, thực hành Y Bát,

Sứ mạng truyền, Khất sĩ tuyên dương.

Hóa duyên hành đạo bốn phương,

Y vàng phấp phới tỏa hương ngạt ngào.

Hoa tâm linh, đẹp xinh nở rộ,

Từ Ngọc Phương, lan tỏa tỉnh thành.

Giúp đời phụng sự nhơn sanh,

Vì dân, vì nước, vì tình thương chung.

Nguyện đoàn kết, trong lòng dân tộc,

Vì hòa bình, hạnh phúc chúng sanh.

Ngôi nhà Giáo Hội công thành,

Tấm gương trong sáng tịnh thanh vững bền.

Suốt cuộc đời hoằng truyền Chánh Pháp,

Một Ni lưu bất khuất, kiên trung.

Kết tinh giới đức vẹn toàn,

Tinh thần Đời - Đạo, khai tâm mọi người.

Ba mươi năm, đi qua mau quá,

Vắng bậc Thầy cao cả kính tôn.

Chúng con quyết một lòng son,

Y theo hạnh nguyện bảo tồn tông phong.

Tu và Học, góp công xây dựng,

Cõi đạo tràng bền vững khang trang.

Khóa Tu Truyền Thống vẻ vang,

Mình - Người tất cả hân hoan tu trì.

Đây ý nghĩa lợi Đời, ích Đạo,

Sự tồn vinh dân tộc Việt Nam.

An sinh xã hội quyết làm,

Thương người, giúp đỡ, đẹp tình nước non.

Thực hiện tốt phương châm Phật Giáo,

Mọi người đều đời sống hanh thông,

Ngôi nhà đoàn kết đại đồng,

Dân giàu, nước mạnh, công bằng, văn minh.

Để tiếp tục tinh thần báo đáp,

Đạo và Đời nguyện góp công lao.

Viên thành hạnh nguyện Thầy trao,

Y vàng Khất sĩ chung lo độ đời.

Đó chính là đài hoa tinh khiết,

Nay chí thành chí thiết dâng lên.

Vun trồng phước đức xứng tên,

Liên Hoa Ni giới Huỳnh Liên sáng ngời.

 

NI SƯ XUÂN LIÊN

Trụ trì Tịnh xá Ngọc Tuệ, Long Thành

PHÁP THIỀN TRONG BÀI KỆ CHÀO BÌNH MINH

Trải qua bao thăng trầm của kiếp người, những được mất hơn thua, khổ vui, vinh nhục, con người sẽ dần nhận chân ra được lời dạy thiên thu bất diệt của đức Phật về khổ và con đường chấm dứt khổ đau. Đau khổ là sự thật hiển nhiên và dễ nhận thấy trong đời sống mỗi người. Con đường chấm dứt khổ đau mà đức Phật dạy không đâu khác ngoài việc tự chuyển hoá nội tâm bằng việc thiền tập hằng ngày.

Thật vậy, trong cuộc sống mà con người luôn phải đối mặt với bao nỗi lo âu sợ hãi và bế tắc thì Thiền tập được xem như một giải pháp khả dĩ đáp ứng những bức xúc nhằm tháo gỡ vướng mắc, khổ đau. Thiền đã trở thành một phong cách sống tỉnh thức có thể áp dụng cho nhiều đối tượng, căn cơ khác nhau, không phân biệt truyền thống văn hóa tôn giáo, được phổ biến trên các phương tiện truyền thông và có phạm vi ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực.

Một tác phẩm Thiền học đặc sắc mà chúng tôi cảm nhận được đó là bài thơ “Chào Bình Minh” của Đệ Nhất Cố Ni trưởng. Không chỉ đơn thuần là một bài thơ ngũ ngôn bình thường mà tác phẩm còn là một kim chỉ nam quý báu đáng ghi nhớ nằm lòng đối với các hành giả đang thực tập Thiền.

Hãy chăm chú hôm nay,

Vì nó là đời sống.

Tuy ngắn chẳng bao dai,

Nhưng vấn đề quan trọng.

Sung sướng lúc vượt lên,

Vẻ vang khi hành động.

Rực rỡ của thành công,

Sự sống trong đời sống.

Hôm nay một giấc mơ,

Ngày mai là ảo vọng.

Nếu hôm nay sống vui,

Thấy hôm qua đẹp mộng.

Thấy ngày mai xinh tươi,

Vậy hôm nay vui sống!

Ngay câu đầu tiên của bài thơ, chúng ta đã nhận thấy tư tưởng thiền tập tuyệt vời mà Đệ nhất Cố Ni trưởng muốn nhắn gởi:

Hiện tại lạc trú.

Hãy chăm chú hôm nay,

Vì nó là đời sống.

Hôm nay tức là không phải hôm qua hay ngày mai. Hôm nay tức là ngay trong phút giây hiện tại. Bậc trí giả không bao giờ hoài niệm quá khứ, than thở, buồn phiền hay trách móc những lầm lỗi lỡ tạo, hay tiếc nuối, nhớ nhung về thời vàng son đã qua. Bậc trí giả cũng không bao giờ mơ mộng, suy tưởng hay ước vọng về tương lai hão huyền chưa đến. Trong hai câu đầu tiên này, Đệ nhất Cố Ni trưởng muốn khuyên hành giả nên an trú tâm trong hiện tại, đừng để tâm rong ruổi đi hoang trong hai miền quá khứ và tương lai, tức là đừng vọng tưởng, cần phải chánh niệm tỉnh giác (vì có vọng tưởng thì tâm không an định sáng suốt, phiền não sẽ phát sinh, tâm si mê điên đảo).

Đây cũng chính là bước đầu căn bản của thiền: Tâm hành giả như con trâu chưa chịu đứng yên, nó cứ đi rong, phá hại lúa mạ. Người chăn phải nắm dây giữ nó ở yên một chỗ. Như thế gọi là “chế tâm nhất xứ” theo lời Kinh Di Giáo, tức là định. Trong Kinh Niệm Xứ, bài kinh số 10 thuộc Trung Bộ kinh, đức Phật dạy về pháp thiền Tứ Niệm Xứ như sau: “Tỳ kheo sống quán thân trên thân, quán thọ trên các thọ, quán tâm trên tâm, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời”. Trong Kinh Thân Hành Niệm, đức Phật cũng dạy các thầy Tỳ kheo niệm hơi thở vô, hơi thở ra trên thân, quán các oai nghi của thân đi, đứng, nằm, ngồi đều có chánh niệm tỉnh giác, quán các cử chỉ của thân, nhất cử nhất động đều ý thức rõ ràng, trọn vẹn. Bởi vì đời sống của chúng ta:

Tuy ngắn chẳng bao dai,

Nhưng vấn đề quan trọng.

Sung sướng lúc vượt lên,

Vẻ vang khi hành động.

Rực rỡ của thành công,

Sự sống trong đời sống.

Đây chính là tinh thần thực tiễn, thực tại của pháp tu này giúp chúng ta ý thức trọn vẹn về sự sống, những gì đang diễn ra trong hiện tại, giúp tâm an ổn không xao động (buồn, thương, oán, giận…), không rơi vào những trạng thái tâm lý tiêu cực như: lo lắng, sầu não, nuối tiếc, hoài nghi, bất mãn, tham luyến... Nhờ đó mà cuộc sống có an lạc hạnh phúc, sung sướng khi vượt qua tất cả những phiền não ai oán trong kiếp nhân sinh, vẻ vang khi tạo tác các hành động thiện lành mang đến lợi ích cho tự thân và tha nhân, khi ấy thành công rực rỡ tức là hạt giống thiện lành đã gieo trồng và chăm bón đến thời kỳ đơm hoa trổ quả.

Hôm nay một giấc mơ,

Ngày mai là ảo vọng.

Sống và kinh nghiệm bao nhiêu năm trên cuộc đời, mọi người trong chúng ta đều ý thức rõ ràng về sự vô thường giả tạo của kiếp sống tạm bợ này. Tại sao Đệ nhất Cố Ni trưởng lại bảo rằng hôm nay một giấc mơ còn ngày mai là ảo vọng. Như vậy thì ý nghĩa của đời sống rốt cuộc là gì? Ở đây cần phải hiểu rằng, giấc mơ là huyễn hoặc, mông lung, ảo vọng là không thật, giả dối. Chánh niệm tỉnh giác ngay phút giây hiện tại tức là không dính mắc, tham đắm vào những dục lạc trong hiện tại hay mơ mộng ảo tưởng về các dục lạc muốn có trong tương lai. Chánh niệm là quan trọng, là cái cần theo hành giả suốt lộ trình tu tập. Tham ái vào ngũ dục làm cho tâm náo động và hỗn loạn. Khi biết xả bỏ tâm sẽ nhẹ nhàng không còn rối loạn.

Hạnh phúc cao nhất là hạnh phúc của sự quán chiếu nội tâm, thấy rõ diễn biến của sự vật. Người nào, với tâm đơn sơ mộc mạc, biết thưởng thức rằng mỗi một phút giây đều tươi mát, đều mới mẻ thì sẽ hưởng hạnh phúc lớn lao. Niềm hỷ lạc lớn lao trong hiện tại sẽ đến từ một cái tâm đơn giản, mộc mạc, không điều kiện; nhận biết trực tiếp không xuyên qua sự suy nghĩ. Do đó, chúng ta nên hiểu rằng

Nếu hôm nay sống vui,

Thấy hôm qua đẹp mộng.

Thấy ngày mai xinh tươi,

Vậy hôm nay vui sống!

Vui sống tức là sống trong chánh niệm tỉnh giác, trong an vui hỷ lạc chứ không phải niềm vui tình trần giả tạo của thế gian. Nếu tất cả chúng ta biết hành theo lời dạy của Cố Ni trưởng qua bài kệ này, chúng ta sẽ tăng cường năng lực mạnh mẽ trong nội tâm, đủ sức vượt qua mọi phong ba bão táp cuộc đời. Leo núi cần có sức mạnh thể chất. Nếu không đủ sức mạnh, thì ngay từ lúc đầu chúng ta sẽ cảm thấy mệt mỏi và không thoải mái. Nhưng khi cơ thể bắt đầu mạnh hơn; việc leo núi sẽ dễ dàng hơn. Việc tu tập tâm ý cũng vậy. Khi sự tập trung chuyên chú ngày càng mạnh thì việc an trụ tâm sẽ bớt khó khăn hơn.Thực hành và hiểu biết giáo pháp là một điều rất hiếm hoi và quí giá. Là môn đệ, là hàng hậu học, mỗi người trong chúng ta phải tự ý thức việc tu tập tự thân là nhiệm vụ hàng đầu, ưu tiên số một trong tất cả công việc hằng ngày. Vượt lên chính mình, vượt lên những phiền não âm thầm hay dữ dội đang hành hạ, chế ngự bản thân hằng ngày là chiến thắng vinh quang, rạng rỡ nhất mà mình cần phải vươn tới. Có được như vậy mới xứng với danh xưng là Ni chúng trong hàng ngũ của Giáo hội Ni giới Khất sĩ và không phụ lòng kỳ vọng của Đệ nhất Cố Ni trưởng khả kính.

Cuối xuân Đinh Dậu 2017

 

NI SƯ HOA LIÊN

Trụ trì Tịnh xá Ngọc Phước - Bình Phước

CUỘC ĐỜI VÀ ĐẠO NGHIỆP CỦA NI TRƯỞNG HUỲNH LIÊN - ĐỆ NHẤT TRƯỞNG NI GIỚI HPKS VIỆT NAM

Ni trưởng Huỳnh Liên thế danh Nguyễn Thị Trừ, sinh tại tỉnh Long An, là trưởng tử ni của Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang, được Đức Tổ Sư ấn chứng nhiệm vụ lãnh đạo Ni chúng.

Vào năm 1947 Ngài được xuất gia với Đức Tổ Sư, vị Tổ khai sáng Hệ phái Khất sĩ Việt Nam. Cùng xuất gia với Ngài là Ni trưởng Đệ Nhị và Ni trưởng Đệ Tam. Được Đức Tổ Sư đặt tên là Huỳnh Liên, Bạch Liên và Thanh Liên. Từ đó Ni trưởng được Đức Tổ Sư giao trách nhiệm lãnh đạo Ni đoàn, dẫn chúng Ni hành đạo, dựng lập Tịnh xá để Ni chúng và Phật tử có nơi tu học. Rồi Ni trưởng lần lượt đến các tỉnh miền Tây, miền Nam du hóa, cất lập rất nhiều Tịnh xá, thu hút rất nhiều tín đồ Phật tử, và kể từ đó Giáo Hội Liên Hoa được thành lập.

Trải qua nhiều tháng năm, Ngài dần dần truyền bá giáo pháp Khất sĩ ra miền Trung, nương theo bước chân của Chư tôn đức Tăng (Tăng già Khất sĩ) mọi việc hành đạo lúc đầu tương đối khó dung thông, lại thêm khí hậu khắc nghiệt, bão tố mưa sa, ngập lụt mãi hoành hành, nắng thì cháy da, gió lào oanh tạc, thêm phần thổ nhưỡng không thích hợp, tập quán khác nhau. Mỗi miền có một cuộc sống dị biệt, và nhất là miền Trung Phật giáo Bắc Tông phát triển lâu đời, chưa thể cảm thông với đường lối tu tập của Hệ phái Khất sĩ còn xa lạ. Về tinh thần, nơi đây do ảnh hưởng tập quán Vua chúa ngàn đời phong kiến, chỉ trọng Tăng mà không chấp nhận Chư tôn đức Ni thuyết pháp, giảng đạo nơi Đô hội. Đặc biệt là hạnh khất thực rất lạ lẫm đối với người dân, từ đó họ rất xem thường Ni giới, còn đối với chư Tăng lại trọng vọng, cung kính.

Nhưng trải qua thời gian, được sự chỉ đạo tu hành sống đời đạo hạnh thanh bần, tịnh mặc, kết hợp với sự hoằng truyền đường hướng chân chính, đúng với lối sống của Phật Tăng xưa, nên từ chư Tăng đến chư Ni hành đạo Miền Trung dần dần được Phật Giáo đồ chấp nhận, thậm chí chư Tôn đức Trưởng Lão Bắc Tông đều đồng thuận.

Thế là sự khó khăn cuối cùng cũng qua đi, Ni trưởng và Chư Tôn Ni đã thành tựu trong bước đầu. Bước khó khăn kế tiếp đòi hỏi Ni trưởng cùng Ni chúng sự kiên trì trong sinh hoạt ăn mặc ở bệnh đều thiếu thốn, nhưng nhờ vào đức hy sinh của du đoàn, kết hợp với hạnh đức trang nghiêm, một mực nghiêm trì giới luật đã tạo nên sự thành công trong cuộc hành đạo miền Trung bước đầu.

Từ năm lập đạo đến nay, lớp lớp hàng hàng người đến xuất gia, cư sĩ quy y, theo học pháp tu tập cũng đông vô số kể, hiện tại thống kê năm 2016 tự viện Tịnh xá được 250 ngôi.

Cuộc đời của Ngài ví như vầng nhật nguyệt soi sáng cho nhân sinh trong tinh thần hòa nhập đạo và đời. Tinh thần cứu cánh của Ngài không phải là quả vị chờ sẵn để thụ hưởng, mà là dấn thân lo cho đời thoát khỏi ách nạn xiềng xích của kẻ đô hộ. Không những thế Ni trưởng còn gom tàn dư chiến tranh bằng cách cứu vớt các em cô nhi, đưa về nuôi nấng, để các em có vòng tay ấm áp bảo bọc khi đã mất đi cha mẹ, và còn rất nhiều việc mà Ngài đã phụng sự cho đạo pháp và chúng sanh không sao kể hết. Đặc biệt là Ngài luôn thể hiện hạnh tùy duyên mà bất biến, bất biến mà tùy duyên.

Ni trưởng Huỳnh Liên hạnh nguyện Bồ tát rộng độ khắp muôn loài, làm con thuyền chở chuyên phái nữ, lập đoàn Ni độ chúng qua bờ giác ngạn. Thấy đất nước lâm nguy, thương vong nô lệ, Ngài đã khuyến khích động viên thành lập nên phong trào “Phụ nữ đòi quyền sống”, làm cách mạng đưa dân tộc đến độc lập hòa bình thật sự hạnh phúc nước nhà.

Còn đối với hạnh nguyện của người xuất gia chân chính thì Người đã làm được gì cho chúng sanh và đạo pháp? Ni trưởng chỉ một lòng phục vụ, làm lợi đạo ích đời, nhưng chẳng cần danh lợi tiếng tăm, cũng chẳng quan tâm đến thành tựu của mình, mà đức Ni trưởng luôn uy nghi làm bậc hướng đạo cho Đoàn Ni giới tiến tu, trau giồi giới định tuệ, khuyến tấn học hành để kiến thức tăng trưởng kịp với trào lưu xã hội thăng tiến.

Khi mọi việc đến hồi viên mãn Ngài ra đi trong sự kính tiếc của muôn vạn đệ tử xuất gia, tại gia và để lại tiếc thương hoài vọng của mọi người. Nhưng Ngài vẫn thản nhiên như thị, thật là:

“Nhạn quá trường không,

Ảnh trầm hàm thủy.

Nhạn vô di tích chi ý,

Thủy vô lưu ảnh chi tâm”.

Nhạn bay trên không.

Bóng chìm đáy nước.

Nhạn không ý để dấu.

Nước không tâm lưu bóng.

(Thiền Sư Hương Hải)

Có thể nói, Ni trưởng Huỳnh Liên góp phần chấn hưng Phật Giáo bằng tự thân đầu trần chân đất, thực hành pháp phật chân truyền, khất thực hóa duyên hạnh của Phật tăng xưa… Tất cả những công hạnh trên vốn đã là tiếng chuông cảnh tỉnh cho muôn vạn người xuất gia. Khác hẳn với người lấy tự ngã làm quan trọng, chân giày chân dép, sống cảnh đế vương, được ở chùa xuất gia trong giáo pháp của Phật là vua là quan, quả thật trái ngược với công hạnh của Đức Phật lúc Ngài còn tại thế.

Thêm vào đó khi nước nhà độc lập, Giáo hội Phật giáo chưa thống nhất thật sự để sinh hoạt chung, các hệ phái còn riêng lẻ, Ngài là một trong những vị đã có công vận động 9 (chín) hệ phái cùng chung một lòng, đưa về một mối. Trong đó Hệ phái Khất sĩ và Ni giới của Hệ phái Khất sĩ đồng hòa hợp thành lập một Giáo hội Phật giáo duy nhất, đó là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hiện hành. Đó cũng là đóng góp điển hình của Ni trưởng trong vai trò chấn hưng Phật Giáo trong thời kỳ cận đại này. Và làm tiền đề sáng lạn nổi bật sau 35 năm thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (1981- 2016).

Về văn chương thi phú của Ni trưởng Huỳnh Liên đã sáng tác đạt đến mức tuyệt tác phi phàm, khiến cho bao người nếu ai đọc đến, hiểu được là phải ngưỡng mộ tấm tắc. Riêng con là đệ tử trong Ni giới Hệ phái Khất sĩ, hằng ngày được tụng niệm các kinh nhật tụng Di Đà, Phổ Môn, Vu Lan, Sám Hối Hồng Danh, Báo Hiếu, kệ tụng do Ni trưởng phiên dịch từ Hán văn ra quốc ngữ thành lục bát, song thất lục bát, song thất biến thể, thất ngôn tứ tuyệt. Ngài giảng rõ không ngoài ý kinh mà văn chương lưu loát đưa Người vào đạo, mỗi câu, mỗi chữ ý nghĩa thâm trầm, để cho người tụng đọc hiểu rõ ý kinh mà không hề chán nản bởi văn tự dài dòng. Từ đó khiến cho người thực hành thoát được ra ngoài vòng ràng buộc của thế gian. Có những bài thơ, Ni trưởng đã miêu tả nỗi khổ của con người phải cam chịu trong cuộc sống hồng trần triền phược, để người đọc phát tâm tu tập, hầu đạt được giải thoát. Văn thơ của Ngài đủ thể loại, bóng bẩy, trừu tượng, nhân cách hóa… nhưng tựu trung đều đưa con người đến cảnh thật, nếu chỉ nghe và để luận bàn suy ngẫm chưa đủ mà phải thực hành đúng lời Phật dạy (Văn Tư Tu).

Hàm ý của Ni trưởng muốn dạy rằng, người tu hành muốn đạt đến cứu cánh Niết bàn phải tu giới định tuệ, phải giữ giới đúng cấp bậc mà mình đã lãnh thọ, đồng thời phải biết làm lành lánh dữ, nếu không sẽ bị đọa lạc luân trầm, đó là lẽ đương nhiên không sai chạy.

Qua đó cho thấy, Ni trưởng Huỳnh Liên, Đệ nhất Trưởng Ni giới Hệ phái Khất sĩ Việt Nam là bậc xuất trần thượng sĩ trong thời cận đại này, xứng đáng cho hàng Ni giới Hệ phái Khất sĩ và mọi người trong xã hội tôn sùng, kính ngưỡng.

Cung kính ngưỡng bái bạch Giác linh Ni trưởng!

Con thật là có phúc duyên, được xuất gia trong Ni giới Hệ phái Khất sĩ, được tắm mình trong biển phật pháp chính là nhờ thẩm thấu kệ Tam Bảo do Ni trưởng sáng tác, văn chương của Ngài đã đem con vào đạo, tin sâu Tam Bảo với niềm tín tâm bất động. Con phát nguyện thà bỏ thân này chứ không bao giờ bỏ đạo và kiếp kiếp sanh thân đều gặp Phật pháp để tu hành.

Ngài là ánh trăng sáng, là vì sao Bắc đẩu giữa bầu trời sạch trong. Chúng con chỉ là những con đom đóm bé nhỏ gom tụ trong lùm cây mảnh đất, nhưng cũng cố gắng làm rực sáng như ánh đèn nhỏ trong đêm. Chúng con hôm nay được làm những viên gạch trong ngôi nhà Giáo hội Hệ Phái lớn lao, thật là diễm phúc hữu hạnh cho chúng con vô cùng.

Để lòng tôn kính con xin dâng vần thơ mộc mạc kính tưởng công đức hành đạo của Ngài ở Miền Trung xa xôi đầy gian khổ, ngưỡng mong Ngài thùy từ chứng giám.

Một ánh hào quang, một vầng nhật nguyệt

Ni trưởng Huỳnh Liên bước chân vàng

Tỏa cùng non núi ải Nam Quan

Đầu nguồn cuối bãi miền Trung thổ

Chuyển hóa độ đời khắp trời Nam.

Nhớ bước chân xưa lập đạo tràng

Sánh tày nhật nguyệt bước du phang (phương)

Rọi đường rẽ lối về bỉ ngạn

Gióng trống xua tan cảnh não phiền.

Ni chúng miền Trung đón chân Ngài

Khai nguồn Bình Thuận nếm chông gai

Phan Rang Ninh Thuận qua nhiều tỉnh

Khánh Hòa lưu trú xứ trầm hương.

Đến đâu Tịnh xá được đâm chồi

Ươm mầm Tam Bảo khắp nơi nơi

Ni chúng càng đông, càng mến mộ

Thiện nam tín nữ lớp vun bồi.

Rồi đến Phú Yên Bình Định thành

Quy Nhơn miền biển đất thần danh

Quảng Ngãi Quảng Nam người hào kiệt

Quí trọng đức Ngài bậc tinh anh.

Nữ lưu xuất chúng cõi trời người

Xuất trần thượng sĩ có mấy ai

Một ánh hào quang, vầng nhật nguyệt

Sáng ngời tỏa rạng, đẹp muôn đời.

Thần kinh xứ Huế đất Cố Đô

Tinh thần Vua chúa khó truyền thừa

Tiếng pháp oai hung như cảnh tỉnh

Thức hồn ai đó giữa sông mê.

Thế rồi rào cản cũng lưu thông

Bốn biển hòa chung một cộng đồng

Ngọt ngào đáp trả ai vấn nạn

Ni trưởng Huỳnh Liên được tôn sùng.

Quảng Trị dù xa cũng đến nơi

Du hành khó nhọc vượt trùng khơi

Bãi cát nóng bừng như rang lửa

Khất thực độ đường, hạnh nêu gương.

Đêm về thuyết pháp giữa trời quang

Hàng hàng thính giả rợp quảng trường

Tưng bừng hỏi đạo, Ngài đáp trả

Khế lý, khế cơ giảng tận tường.

Từ đó đông vầy chúng xuất gia

Thiện nam tín nữ đất Đông Hà

Mến đạo quy y trì năm giới

Hiểu rõ con đường Phật Thích Ca.

Hòa hiệp Nam Trung một con thuyền

Liên Hoa Bát Nhã Ngài Huỳnh Liên

Độ chúng hai miền thành Giáo hội

Vầy đoàn khất sĩ, kết thiện duyên.

Ngày nay rạng rỡ đẹp cửa thiền

Đạo vàng cường thịnh chúng hưng yên

Tịnh xá chúng Ni ngời tầm cỡ

Ngài là nhật nguyệt ánh hào quang.

Sáu mươi lăm năm một kiếp người

Hiện thân Bồ tát giữa trần ai

Độ tận chúng sanh không lười mỏi

Bóng từ vô lượng khắp nơi nơi.

Ba mươi năm chẳn Ngài giã từ

Chúng con ngầm tưởng mới hôm qua

Đắm mình kính ngưỡng Thầy vĩ đại

Ngỡ rằng Thầy mãi mãi không xa.

Ni chúng miền Trung quyết một lòng

Theo chân Ni trưởng hạnh Thích Ca

Xứng danh con gái dòng Thích Tử

Đáp tạ ân Thầy độ xuất gia.

Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ tát Ma Ha Tát.

 

NI SƯ TIẾN LIÊN

Trụ trì TX. Ngọc Hòa (USA)

ĐẠI LỄ TƯỞNG NIỆM LẦN THỨ 30 NI TRƯỞNG ÂN SƯ VIÊN TỊCH

Từ ngày 17 - 19 tháng 03 năm Đinh Dậu (13-15.04.2017) tại Tổ đình Ngọc Phương - TP Hồ Chí Minh

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính lạy Chư Phật Pháp Tăng Mười Phương Ba Đời.

Kính lạy Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang.

Kính bạch chư Tôn Giáo Phẩm Hòa thượng Hội đồng Chứng minh.

Kính bạch chư Tôn Đức Hội đồng Trị sự GHPGVN.

Kính bạch chư Tôn Đức Ban Trị Sự GHPGVN TP. HCM, chư Tôn Đức Ban Trị sự GHPGVN quận Gò Vấp và các quận huyện.

Kính bạch chư Tôn Đức Giáo phẩm Hệ phái Khất sĩ.

Kính bạch chư Tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng.

Kính bạch quý Ni trưởng, Ni sư, chư Tôn Đức Ni.

Kính thưa quý vị Khách quý cùng toàn thể quý Phật tử.

Kể từ ngày Ni trưởng thượng Huỳnh hạ Liên - Đệ nhất Trưởng Ni giới Hệ phái Khất sĩ Việt Nam tọa bửu liên đài Cao Đăng Phật Quốc đến nay đã tròn 30 năm. Tuy rằng một phần ba thế kỷ đã trôi qua với bao sự đổi thay và phát triển của xã hội cũng như của Giáo hội và Hệ phái, nhưng hình ảnh tôn quý và công hạnh tuyệt vời của Ni trưởng vẫn luôn hiện hữu trong lòng Ni giới chúng con.

Hôm nay, nhân Lễ Tưởng niệm lần thứ 30 ngày Ni trưởng viên tịch, chúng con trước hết vô cùng tri ân sự hiện diện của chư Tôn Thiền Đức, chư vị khách quý, Phật tử gần xa. Tiếp đến, xin chư Tôn đức cho phép chúng con được sơ lược qua tiểu sử của Ân Sư chúng con.

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ

Ngưỡng bạch Giác linh Thầy, hôm nay ngày Tưởng Niệm Thầy 30 năm vắng bóng, chúng con xin mượn vài dòng văn thô thiển nhắc lại cuộc đời và công hạnh của Người. Kính nguyện Giác linh Thầy chứng giám.

I. THÂN THẾ

Ni trưởng thượng Huỳnh hạ Liên, thế danh Nguyễn Thị Trừ, sinh năm 1923 tại làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang). Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Vận. Thân mẫu là cụ bà Lê Thị Thảo, xuất gia thọ Tỳ Kheo Ni giới Pháp danh Thiện Liên.

Thiên tính bẩm sinh ham học và thích văn thơ như đã gieo trồng từ bao thưở, Ni trưởng vào tuổi chập chững biết đi đã thuộc làu Tam Tự Kinh do thân phụ Người đọc cho nghe hằng ngày trong lúc ru ngủ. Ni trưởng được học môn Hán Nôm từ Cụ Ông khi tuổi còn rất nhỏ.

Thập niên 1930 đến 1940, phụ nữ thường không được đi học nhiều, chỉ lo việc tề gia nội trợ là chính, Ni trưởng ngược lại tìm tòi học, đọc rất nhiều sách vở, nhờ thông thạo chữ Hán và được gia đình cho học hết chương trình Trung học. Ni trưởng thường quan tâm đến những vấn đề về nhân sinh, thế giới hơn là những việc thường nhật khác của một thiếu nữ miền quê.

Hạnh khiêm tốn và tình thương giành cho thân phận nữ nhi như đã có từ bao đời, Ni trưởng thường giúp các chị em phụ nữ cùng trang lứa trong làng học hiểu về cuộc sống, hướng dẫn giúp các bạn làm thơ từ thi phú, hỗ trợ những ai kém may mắn không được đến trường.

Sinh trưởng trong một gia đình thâm nho, đạo đức và tin Phật, Ni trưởng được nuôi dưỡng tinh thần bằng chất liệu từ bi, và sớm nhận thức cõi đời là giả tạm, thế sự phù vân, chỉ có đạo giải thoát cứu cánh mới giúp con người đến được bờ giác ngộ.

Năm 20 tuổi, Ni trưởng không như bao nhiêu thiếu nữ thường tình khác, phát sơ tâm làm cư sĩ tại gia tại Niệm Phật Đường Minh Sư.

Năm 1947, thời điểm chuyển mình thoát tục, được thính pháp với Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang, khi Ngài hành đạo đến làng Phú Mỹ, Tỉnh Mỹ Tho, Ni trưởng bước ra quỳ xin Đức Thầy cho xuất gia. Đức Tổ Sư hỏi: “Tín nữ xuất gia với hạnh nguyện gì?” Ni trưởng thưa: “Bạch Đức Thầy, con xuất gia với hạnh nguyện làm chiếc thuyền chở chuyên phái nữ”. Đức Tổ sư khen: “Đó là hạnh nguyện của Bồ tát, chỉ có Bồ tát mới có hạnh nguyện rộng lớn như thế”. Đức Tổ Sư dạy: “Tín nữ về tìm thêm 3 vị nữa cùng đi xuất gia”.

Ngày 1 tháng 4 năm 1947 tại Linh Bửu Tự, Làng Phú Mỹ, Tỉnh Mỹ Tho, Ni trưởng cùng 3 vị đồng hành được Tổ Sư tiếp độ xuất gia, ban pháp danh Huỳnh Liên, Bạch Liên, Thanh Liên và Bửu Liên.

II. XUẤT GIA

Xuân đạo lý đã đơm bông trí tuệ, Ni trưởng cùng 3 vị pháp lữ được Đức Tổ Sư truyền Y Bát, ấn chứng làm Trưởng tử Ni để hướng dẫn đoàn Ni Giới đi hành đạo theo dấu chân của Đức Kiều Đàm Di Mẫu, chư vị Trưởng Lão Ni tiền bối. Ni trưởng cùng Tăng đoàn hàng ngày học đạo, nghe pháp từ Đức Tổ Sư và mỗi ngày mỗi vị phải trình kệ pháp, để Tổ Sư xem xét lại việc học đạo và hiểu đạo của chúng đệ tử. Đức Tổ Sư tuy không khen tặng, nhưng những bài kệ pháp của Ni trưởng thường được Đức Tổ Sư cho phép ghi chép lại và về sau còn chứng minh cho làm những bài Kệ khuyến tu, để Phật tử đọc tụng hàng ngày. Trong thời gian Tổ Sư còn dẫn đoàn đi hành đạo, Ni trưởng ngoài việc tu học hành trì pháp tu, còn được Đức Tổ Sư giao cho phận sự chuyển dịch và soạn thảo Kinh Tụng hàng ngày.

Năm 1954, Tổ Sư Minh Đăng Quang vắng bóng, kế tục sự nghiệp được Thầy giao phó, Ni trưởng cùng Tăng đoàn hoàn thành sứ mạng hoằng truyền Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam. Thời gian đầu rất gian nan, nhưng vì chí nguyện xuất trần Ni trưởng đã lèo lái con thuyền Liên Hoa bằng tất cả tấm lòng, bằng từ bi hỷ xả, vô ngã lợi tha.

III. ĐẠO NGHIỆP

Bằng hạnh nguyện làm chiếc thuyền từ chở chuyên phái nữ qua sứ mạng nối truyền Thích Ca Chánh Pháp, Ni trưởng đã nỗ lực lèo lái con thuyền Ni giới Khất sĩ song song con thuyền Giáo hội Tăng già, truyền thừa Phật Pháp rộng sâu trong quần chúng nhân gian khắp hai miền Nam Trung nước Việt.

Trong 41 năm, ánh sáng công hạnh trí tuệ của Ni trưởng gieo trồng đến đâu là hoa Giác, quả Thiền xinh tươi đơm cành đến đó. Xe Pháp luân hoằng dương Chánh pháp của Ni trưởng từ năm 1947 đến năm 1987 đã tỏa chiếu ánh từ quang, giông ruổi khắp sơn khê, phố thị, tiếp độ hàng ngàn Ni chúng xuất gia. Thiện Nam, Tín Nữ hàng hàng lớp lớp quy y. Thành lập hàng trăm ngôi Tịnh xá, Đạo tràng, chi nhánh khắp Nam Trung. Từ các tỉnh miền Tây như Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Đồng Tháp; đến Thành Phố và các tỉnh miền Đông như Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh; Cao Nguyên trung phần có Tỉnh Lâm Đồng, Gia Lai, Komtum, Dalak; Ra đến miền Trung Phan Rang, Phan Rí, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam Đà Nẵng, Tam Kỳ, Thừa Thiên Huế, Quảng Trị đều có Tịnh xá Ni chúng đệ tử của Ni trưởng.

Suốt đời vì đạo, vì nhơn sanh, thanh bần giản dị, nhu yếu về ăn mặc ở bệnh, đơn sơ qua bữa, thế mà phút giây nào Ni trưởng cũng vận dụng tâm trí dùng Thân, Khẩu, Ý giáo hóa môn đồ, độ cư gia bá tánh. Thương Ni chúng và Phật tử khó lãnh hội được ý nghĩa súc tích thâm sâu của Kinh Tạng chữ Hán và Pali, Ni trưởng diễn dịch, biên soạn, toát yếu một số Kinh ra chữ Quốc ngữ, thể văn vần cho dễ học, dễ hiểu và dễ nhớ. Các Kinh Nhật Tụng như Kinh Di Đà, Kinh Hồng Danh, Kinh Vu Lan, Kinh Phổ Môn, Kinh Báo Hiếu, Bát Nhã Tâm Kinh và các bộ Kinh như Khóa Hư Lục, Kinh Vô Ngã Tướng, Kinh Pháp Cú, Kinh Di Giáo, Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Cảnh Sách, Kinh Sa Môn Quả, Kinh Ma Kiến Đề… Đặc biệt là Chơn Lý Đại Đồng của Đức Tổ Sư gồm 69 quyển được diễn thành văn vần, để Ni chúng Tụng đọc hằng ngày.

Cuộc đời thơ văn của Ni trưởng gắn liền với sứ mạng hoằng dương Phật Pháp, đem thơ tải Đạo, gần 2000 bài thơ, bài kệ đủ thể loại từ thể Tứ Tự, Ngũ Ngôn, Lục Bát, Tứ Tuyệt, Song Thất Lục Bát, Bát Cú đến thể thơ tự do và thể loại Văn tế và hàng ngàn bản văn xuôi với nội dung khuyến tu, trau giồi Giới, Định, Tuệ.

Ngoài việc kiến pháp tràng ư xứ xứ, phá nghi võng ư trùng trùng, hàng phục chúng ma, thiệu long Tam Bảo, Ni trưởng còn dạy: Là Trưởng tử của Như Lai, hành Như Lai xứ, tác Như Lai sự, phải có đủ đạo hạnh và trí tuệ để hoằng hóa và làm lợi ích cho chúng sanh. “Mỗi người học chữ phải trau giồi đạo đức, lấy sự tu chứng làm việc, chứ không phải chỉ học suông”. Do vậy, Ni chúng xuất gia phải thực tập hai câu thơ của Ni trưởng:

“Tu có học mới rạng ngời Chánh Pháp,

Học có tu mới lợi Đạo ích Đời”.

Thực hành Bồ tát đạo, Ni trưởng với tinh thần nhập thế mang Đạo vào Đời, lấy từ bi xóa hận thù. thực hành con đường Lục độ. Ni trưởng muốn đem tình thương và ánh sáng Đạo Vàng xoa dịu nỗi khổ vật chất và tinh thần của mỗi tâm hồn, nhờ đó mà được thấm nhuần mưa pháp. Ni trưởng cho thành lập các Cô nhi viện và Ký nhi viện nuôi trẻ mồ côi, mở trường dạy học từ thiện, ủy lạo bố thí các bệnh viện, khám đường... Cô nhi viện Nhất Chi Mai tại Cầu Hang - Biên Hòa, cô nhi viện ở khắp các Tỉnh Thành như Cà Mau, Phước Long, Bình Long, Phan Rang… được thành lập song song bên cạnh các Tịnh xá khắp nơi. “Mỗi người tu đều tích cực làm việc cứu độ, chớ đừng cầu an, hưởng lạc, quan niệm ích kỷ giải thoát bản thân”.

Năm 1981, Ni trưởng trong tinh thần đoàn kết hòa hợp cùng chư Tôn Đức lãnh đạo các tổ chức Giáo hội, Hệ phái xây dựng thành công ngôi nhà Phật Giáo Việt Nam và Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam cơ sở II tại Vạn Hạnh, Thành Phố Hồ Chí Minh.

Ni trưởng trong nhiều năm phục vụ Đạo Pháp và Dân Tộc được suy cử giữ nhiều chức vụ như: Đại Biểu, Ủy Viên Trung Ương Mặt Trận, Hội Liên Hiệp Phụ Nữ, Phó Chủ Tịch Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc… nhưng Ni trưởng thường dạy Ni Chúng:

“Nguy thời dựng nước cứu dân,

An thời giũ áo am vân tu trì”.

Ni trưởng nhìn xa trông rộng và biết được thời gian đến đi của mình.

“Ngày đã cận cần tu gấp rút,

Giới giữ sao trong sạch như xưa,

Định Huệ không thiếu, không thừa,

Lợi ích dân chúng đúng vừa khả năng”.

Gần khoảng 10 năm cuối đời, Ni trưởng để hết tâm lực và thời gian còn lại xây dựng Tịnh xá Ngọc Uyển, thành phố Biên Hòa nơi có hàng chục mẫu đất làm Đạo Tràng Tịnh xá Ngọc Phương 2, để mở mang phát triển cho Hệ phái Ni giới. Giáo dục, khuyến tấn chư Ni ghi danh vào trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam. Mở các lớp Giáo lý tại Tịnh xá Ngọc Phương và Tịnh xá Ngọc Liên, Cần Thơ. Đạo nghiệp của Ni trưởng là sự kết hợp của Giới đức, Tâm đức, Trí đức và Tuệ đức.

IV. VIÊN TỊCH

Thời gian cuối cùng của Báo Thân, tuy sức khỏe kém dần, nhưng Ni trưởng vẫn không sao lãng chí nguyện ưu đời mẫn thế, hóa độ chúng sanh, giáo dưỡng Chúng Ni xiển dương Phật Pháp. Người vẫn tỉnh giác tự tại, biểu thị hiện thân của một vị Bồ tát, giới đức trang nghiêm, thanh tịnh, sinh tử, khứ lai vô ngại. Ni trưởng sắp đặt công việc của Hệ phái, người nào việc nấy và dạy phải ý thức tham gia làm giáo dục, từ thiện không được sao lãng và từ nan khó nhọc.

Vào lúc 16 giờ 20 ngày 19 tháng 3 năm Đinh Mão (nhằm 16 tháng 4 năm 1987), Ni trưởng viên tịch mãn Báo thân, trụ thế 65 năm, 41 năm hạ lạp.

Ngưỡng bạch chư Tôn Thiền Đức và quý liệt vị,

Chúng con biết Thầy chúng con:

“Thác tích vào đời để độ sinh,

Một khi tâm nguyện đã viên thành.

Thu thần xả mọi duyên trần thế,

Về cảnh Liên đài nơi bất sinh”.

Nhưng hàng Ni giới chúng con được thọ Ân giáo dưỡng của Ni trưởng, vẫn còn mang nặng nghĩa Ân sư, luôn mong ngày đền đáp. Để thể hiện lòng tri ân đến bậc Thầy cao cả, chúng con xin mạn phép chư Tôn đức cho toàn thể chư Ni Hệ phái chúng con, thành tâm đảnh lễ Giác linh Ân sư ba lạy.

Kính nguyện chư Tôn Đức Pháp thể khinh an, Phật sự viên thành. Kính chúc quý quan khách, quý Phật tử thân khỏe tâm an, vạn sự cát tường.

CẢM HOÀI

Tưởng niệm lần thứ 30 ngày Ni trưởng Huỳnh Liên viên tịch (1987-2017)

Thời gian thắm thoát thoi đưa, đã 30 mùa mưa nắng, Ni chúng Ngọc Phương chúng con xa Ni trưởng. Ni trưởng thượng Huỳnh hạ Liên, Đệ nhất Trưởng Hệ phái Khất sĩ Ni giới, một bậc Thầy khả kính mà chúng con, những ai được sống gần, hoặc gặp gỡ tiếp xúc qua, khó mà quên được! Đạo lý uyên thâm, thông thái, cởi mở và đặc biệt là lòng từ bi quảng đại của Người.

Năm 1980, theo lời dạy của Ni trưởng “những Ni cô hoặc Tập sự còn trẻ tuổi phải về Tổ đình Ngọc Phương để được tiếp tục học văn hóa vì mai sau, theo sự phát triển của xã hội, người tu phải có trình độ văn hóa mới hành đạo giúp đời, có kiến thức hiểu biết thì mới không đi vào con đường mê tín”.

“Tu có học mới rạng ngời Chánh pháp,

Học có tu mới lợi Đạo ích Đời”

Năm 1981, con đang tập sự tại Tịnh xá Ngọc Chiếu, Hàm Tân, khăn gói về Tổ đình Ngọc Phương. Chư Ni được chia làm hai chúng học, một chúng còn nhỏ tuổi đời ở lại Tổ đình Ngọc Phương tiếp tục học văn hóa, một chúng hơi lớn tuổi đời về Tịnh xá Ngọc Liên, tỉnh Cần Thơ học giáo lý. Con năm đó chỉ mới 14 tuổi, tuy rất thích học giáo lý, vì chí nguyện xuất gia, nhưng phải ở lại Ngọc Phương để tiếp tục học văn hóa, theo sự chỉ dạy của Ni trưởng.

Để chuẩn bị cho con đường học văn hóa của chư Ni, Ni trưởng cho chúng con học trước nội điển và ngôn ngữ. Ni chúng học Kinh Nam truyền, Hán văn, Pali và học làm thơ. Môn văn thơ do Ni trưởng trực tiếp đứng lớp dạy, môn Hán văn có Ni trưởng Mai Liên, Ni sư Cẩm Liên phụ trách. Học Pali và Kinh Trung Bộ thì Ni chúng đi học tại Đại học Vạn Hạnh với Hòa thượng Thích Minh Châu.

Hình ảnh Ni trưởng đứng trước bảng dạy học thật khó quên trong lòng con. Ánh mắt nghiêm nghị, nhưng đầy từ ái, giọng nói ôn tồn, Ni trưởng dạy kỷ thuật làm thơ, nào nhịp thanh, vần đối, nào niêm luật và tứ thơ, từ căn bản là thể Tứ Tự… Phật sự của Ni trưởng rất bận rộn, có nhiều việc lo trong, lo ngoài, nào là đi hội họp, nào là cùng quý chư Tôn Đức giáo phẩm trong Ban Vận Động, đi khắp nơi vận động thành lập ngôi nhà Phật Giáo Việt Nam. Khách đến tìm Ni trưởng, nhiều khi phải chờ cả buổi. Con còn nhớ hình ảnh “Sư” Giác Toàn ngồi nơi phòng khách chờ đến 2, 3 giờ đồng hồ để gặp Ni trưởng bàn luận công việc gì đó. Ngoài việc đối ngoại, Ni trưởng còn phải để tâm lo kinh tế cho Tổ đình Ngọc Phương. Vậy mà Ni trưởng vẫn giành ra mỗi tuần 2 buổi để dạy Ni Chúng học làm thơ.

“Vì muôn chúng đành cam nhọc khổ,

Chẳng riêng mình tìm chỗ nghỉ ngơi.

Đông, Tây lặn lội đòi nơi,

Tấm thân dầu dãi khi vơi khi đầy”

(Trăng Đạo)

Lớp văn hóa đầu tiên trình độ lớp 8 của chúng con là lớp thí điểm, mà cũng là ưu tiên nhất trong các lớp, nên có biệt danh “lớp đặc biệt”. Ni trưởng cho mời các Giáo sư nổi tiếng về Ngọc Phương dạy bốn môn căn bản: Toán, Lý, Hóa, Văn, để chư Ni tiếp tục con đường học nghiệp. Lo chúng con không theo kịp với trình độ bên ngoài, Ni trưởng cho chúng con học ngày, học đêm. Một môn học có đến 2 Giáo sư dạy kèm. Học Ni đi học 1 năm phải nhảy 2 lớp, vì Ni trưởng muốn chúng con phải tốt nghiệp cấp 3 trong vòng 2 năm. Nói “lớp đặc biệt” được ưu tiên vì trong các lớp học văn hóa, chúng con được ưu đãi về các mặt học tập cũng như thời gian. Sau khóa học của chúng con, những chương trình học luyện thi và bồi dưỡng thêm cũng lần lần thuyên giảm.

Thập niên 1980, các Tịnh xá còn nhiều khó khăn về kinh tế, người người còn rất khổ, cơm gạo thiếu trước, hụt sau, vậy mà chúng con được nuôi dưỡng trong vòng tay của Ni trưởng, được ăn học, không cần lo âu, phiền muộn. Thỉnh thoảng, chúng con được quý Sư Cô quản chúng cho biết, “tiền mướn Giáo sư dạy học cho các cô rất đắc”. Quý Sư cô phải thu vén những khoản chi tiêu khác để có tiền trả tiền học cho chúng con. Ni trưởng cho học, nhưng còn các vị Ni chúng khác, thì sao? Chúng con cũng khó lòng yên ổn, học nhưng cũng lo lo làm sao ấy.

Một hôm, Ni trưởng đi vắng, chúng con toàn thể đồng lòng trốn học dự định cho cô giáo, thầy giáo nghỉ dạy, để khỏi phải trả tiền học phí. Thế là cả lớp chúng con được gọi xuống quỳ 1 giờ đồng hồ trước phòng của Ni trưởng, nơi có chiếc võng Ni trưởng thường nằm nghỉ. Ni trưởng vừa giận, vừa dạy với giọng hơi nghẹn: “Sư cô cho các Cô học là để lo cho tương lai của Giáo hội, cho Đạo Pháp và cho các Cô. Sư cô còn sống ngày nào thì lo cho các Cô ngày đó, mai sau Sư cô mất rồi, các Cô không có cơ hội học hành, Giáo hội phải làm sao? Ngày nay, dân trí phát triển, các Cô phải có trình độ văn hóa. Sư cô lo cho các Cô phụ lòng Sư cô. Sư cô và các Sư cô các nơi Tịnh xá, nhịn ăn, nhịn mặc lo cho mấy Cô, mà mấy Cô không hiểu, muốn phản Thầy. Ai, ai dạy mấy Cô phản Thầy….” Hôm nay, viết lại đôi dòng nầy, con vẫn còn rơi nước mắt, tim quặn đau vì nhớ Ni trưởng. Tấm lòng của Ni trưởng, không phải chỉ là của người Thầy mà còn là của Người Mẹ hiền đảm đang.

“Sứ mạng từ bi hiện nữ nhân,

Vớt đoàn nhi nữ thoát trầm luân.

Đóng vai từ mẫu, vai thuyền trưởng,

Vẹt sóng ba đào hiện pháp thân”.

(Khóc Thầy)

Kể từ đó, chúng con không dám chểnh mảng việc học hành, cho dù ai nói gì, chúng con cũng cố gắng vâng lời Ni trưởng. Chúng con không những được học không thôi mà những lúc vào mùa thi, còn được chăm lo thức ăn bồi dưỡng vì sợ chúng con ăn không đủ dinh dưỡng, thức khuya, dậy sớm học bài, không đủ sức khỏe để thi cử. Lại một phen khảo đảo, chúng con chỉ biết âm thầm lặng lẽ cố gắng học cho xong tốt nghiệp để đền đáp tấm lòng của Ni trưởng. Lớp “đặc biệt” chúng con học một hơi 2 năm xong bốn lớp. Chúng con đa số có điểm đậu rất cao, nhờ ơn Ni trưởng. Thật là:

“Con chìm đắm biển trần thọ khổ,

Thầy từ bi tế độ vớt lên.

Mặc thì áo giới ấm êm,

Ăn thì sữa pháp, cơm thiền nuôi thân”.

(Nhớ Ơn Thầy)

Trong thời gian các Phật Học Viện chưa được mở, thì Tổ đình Ngọc Phương cũng là Ni trường thường xuyên có những lớp giáo lý, lớp học nghề và năng khiếu cho chư Ni các tỉnh, thành vùng xa về trau giồi thêm giáo lý và rèn luyện kỷ năng. Ni chúng tu học tại Tổ đình Ngọc Phương có đến 100 vị, từ lớn đến nhỏ, luôn cả các em Cô Nhi, Ni trưởng đều nhớ mặt, nhớ tên. Ni trưởng thường quan tâm thăm hỏi hoàn cảnh gia đình của từng Ni cô. Ai có khó khăn, Ni trưởng ân cần chăm sóc giúp đỡ và sách tấn tu tập. Trong chị em Ni chúng có ai khởi tâm thối chuyển, muốn về lại thế. Ni trưởng biết được, Người rất tâm lý, cho gọi chúng con đến, tìm hiểu ai thân ai, gần gũi với ai rồi cho các Ni cô về đến tận nhà an ủi, nhắc khuyên, động viên đừng bỏ đường tu.

Có lần, con mặc áo vá vai, Ni trưởng gọi con lại, hỏi ai dạy con vá áo, sao mà xấu quá? Con thưa, Mô Phật, bạch “Ni sư” áo con mượn mặc. Ni trưởng bảo “lần sau, nếu con có áo rách thì phải biết vá, đừng vá áo xấu như vậy, mặc không lịch sự”. Vây là Ni trưởng dạy con vá áo mất nửa giờ đồng hồ. Ni trưởng ngồi dạy con vá áo, một việc làm thân thiện và ngoài trí tưởng tượng thơ bé của con, làm con nhớ bốn câu thơ trong bài thơ có tựa đề “Con Nguyện” của Ni trưởng làm trình Đức Tổ Sư khi mới xuất gia:

“Con nguyện hiện thường kiếp nữ thân,

Bởi bao phụ nữ khổ trong trần.

Tiện bề thân thiện con dìu dắt,

Dầu phải cực lòng lốt phụ nhân”.

Những câu chuyện đầy tình người, thắm thiết tình đạo và chan chứa lòng từ bi của Ni trưởng, chúng con thiết nghĩ không làm sao kể hết, cũng không bút mực nào có thể diễn tả được, như bốn câu thơ Ni trưởng tả về Đức Tổ Sư trong bài Trăng Đạo, thì với chúng con, Người cũng từ ái, đẹp đẽ và cao quý như vậy.

“Dầu lấy nước biển khơi làm mực,

Lấy cây rừng làm bút viết văn.

Luận đề như cát sông Hằng,

Cũng chưa giải hết ý trăng nhiệm mầu”.

Sau khi tốt nghiệp xong, chúng con người thi vào Học Viện, người theo học khoa Ngữ văn, chuyên ngành Anh văn, Pali… Riêng con theo gia đình định cư ở nước ngoài.

Suốt thời gian 26 năm sống xa Thầy, xa bạn, xa Tổ đình Ngọc Phương, có những chuyện phôi pha theo năm tháng và thời gian, nhưng những lời dạy của Ni trưởng, con không thể nào quên. Từ thân giáo, khẩu giáo của Ni trưởng lúc nào cũng nhắc nhở con phải nỗ lực tinh cần: “Đạo thì phải lấy sự tu chứng làm đầu, trau giồi đức hạnh. Đời thì phải siêng năng làm từ thiện, giáo dục không ngại gian lao, chẳng từ khó nhọc”. Con vừa đi học, vừa đi làm, vừa kiến lập đạo tràng Tịnh xá, dù gian khổ, con cũng cứ lần hồi học cho được đến học vị Tiến sĩ. Noi gương Ni trưởng, nơi nào kiến lập Tịnh xá, thì nơi đó có Trung Tâm Văn Hóa Giáo Dục để giúp con em các gia đình Việt Nam học tiếng Việt, văn hóa Việt và giáo lý Phật Đà.

Hôm nay, trở về Tổ đình Ngọc Phương chuẩn bị cho lễ Tưởng Niệm 30 năm vắng bóng Ni trưởng, con không khỏi bùi ngùi xúc động, hoài niệm những tháng ngày xa xưa. Hình ảnh Ni trưởng với chiếc áo vải thô sơ, bạc màu, đeo mắt kính hơi lệch xuống một chút, ngồi nơi chiếc võng sửa bài cho chúng con. Ngưỡng bạch Ni trưởng, chúng con được trưởng thành, lớn lên trong vòng tay của Người, có đầy đủ nghị lực tiếp nối sứ mạng truyền đăng tục diệm. Cho dầu nơi đâu, đất nước nào chúng con vẫn không quên bổn hoài và hạnh nguyện độ sanh của Ni trưởng, những hoài bảo phát triển Giáo hội mà Ni trưởng đã truyền trao cho chúng con. Chúng con nguyện noi gương, ân đức của Ni trưởng “nhẫn nhục Thầy nêu hạnh sĩ hiền”. Đem thân phụng sự Đạo và Đời.

“Nguyện xin hiến trọn đời mình,

Cho nguồn đạo pháp cho tình quê hương.”

Chúng con đem hết thân tâm thành kính đảnh lễ Giác Linh “Thầy”, Người đã ban giới thân tuệ mạng cho chúng con. Nguyện Giác Linh “Thầy” thùy từ minh chứng!

LÒNG BIỂN BAO LA

Nguyền biến thành giọt nước,

Nguyền biến thành dòng sông.

Làm ngọn triều xuôi ngược,

Hòa biển cả mênh mông.

(Lòng Biển Bao La - Cảm tưởng thống nhất năm 1964)

Thể của Pháp là uyển chuyển và tùy thuận, cũng như sự nhu nhuyến, mềm mại dễ hòa lẫn của nước. Ni trưởng Huỳnh Liên, Đệ nhất Trưởng Ni giới Hệ phái Khất sĩ, đã ví mình như giọt nước để được hòa lẫn với sông, với biển cả mênh mông. Con người thì còn có ranh giới của nhân ngã, còn có phân biệt thấp cao, bỉ thử, nhưng, Biển thì khác. Biển cả bao la, đục trong chẳng nệ hà. Vì đại nguyện, Ni trưởng muốn chuyển hóa chính bản thân mình như giọt nước, bởi có mềm mại nhu nhuyến như nước mới có thể đi vào những dòng sông hẹp, rạch sâu hay ra biển rộng, mà không bị ngăn ngại.

Cuộc đời và đạo hạnh của Ni trưởng được nhiều người nhận xét là một vị chân tu, là một nhà cách mạng, là một nhà thơ… Nếu có ai đã từng được gặp gỡ đàm đạo với Ni trưởng hoặc đọc qua thơ văn của Người sẽ nhận ra tâm lực, nguyện lực và trí lực của Ni trưởng đối với đạo, đối với chúng sinh vạn loại là một sự dấn thân phụng sự, không từ gian khó. Người hội nhập trong thế gian bằng thơ văn, bằng ý pháp, bằng thân hành góp phần làm phong phú nền văn minh nhận loại, tạo nên cuộc sống an vui hòa bình. Con đường vạch sẵn cho mình, trong bài Lối Đi, Ni trưởng viết:

“Trong đêm tối con khêu đèn giác ngộ,

Trong hãi hùng con giải khổ âu lo.

Trong đói nghèo con tạo cuộc ấm no,

Tuỳ phương tiện chuyển vai trò theo cảnh”

Về Đạo, Ni trưởng là một bậc có Tuệ giác, với đầy đủ Bi, Trí, Dũng, quyết thành tựu đạo quả. Bài Hạnh Nguyện Bồ Đề được Ni trưởng viết vào thập niên 1960, khi mới thành lập Tịnh xá Ngọc Phương (nay là Tổ đình Ngọc Phương của Ni giới Hệ Phái) có đoạn phát nguyện: “Các cô ơi, Tôi muốn đắc quả Bồ Đề Vô thượng để cứu độ chúng sanh, vì tôi xét thấy muốn đắc quả Bồ Đề thì trước phải hành đạo Bồ Đề, mà đạo Bồ Đề là con đường giao nối giữa tôi, các cô và chúng sanh muôn loại”.

1. Tôi nguyện thành tựu Phật thân có đủ 32 tướng tốt.

2. Tôi nguyện thành tựu Phật tâm rộng chứa hết chúng sanh.

3. Tôi nguyện thành tựu Phật trí phóng quang phát huệ.

4. Tôi nguyện thành tựu Phật tánh tỏ ngộ Chơn như.

Về Đời, Ni trưởng là hiện thân của Mẹ Hiền Quan Thế Âm. Nhìn thấy cái khổ của Chúng sanh do không hiểu Đạo, chìm đắm trong sanh tử. Cái khổ của chúng sanh về sự nghèo đói, chiến tranh, thiên tai của trời đất cho đến cái khổ giữa người và người gây ra. Ni trưởng đã hướng dẫn Chư Ni trong Giáo Hội Liên Hoa thực hành Lục Độ, Vạn Hạnh, dong thuyền từ, mở mang Ánh Đạo Vàng khắp nơi nơi, từ sơn khê đến thành thị, từ bịnh viện đến khám đường:

Mười năm đầu du phương lưu động,

Khắp đó đây mở rộng niềm tin.

Ngày ngày thuyết pháp giảng kinh,

Ngày ngày khất thực trì bình hoá duyên.

Đạo khổ hạnh người hiền mến cảm,

Nghĩa kệ kinh đơn giản rõ ràng.

Chùa chiền dựng lập Trung Nam,

Xuất gia cư sĩ hàng hàng quy y.

Mười năm kế thêm chi từ thiện,

Uỷ lạo chung bệnh viện khám đường.

Nạn nhân chiến cuộc đau thương,

Hoả tai lụt lội, hồi hương ra tù.

Trẻ mồ côi nhận thâu nuôi dưỡng,

Khai học đường mở hướng văn minh.

Cửa Từ rộng đức hiếu sinh,

Lợi người lợi vật nhiệt tình nhiệt tâm.

(Ba Mươi Năm Diễn Tiến)

Trên con đường phụng sự nhân sinh, Ni trưởng chủ trương dùng Văn tải Đạo. Những bài thơ của Ni trưởng là những bài Pháp ngắn giúp mọi người dễ học, dễ nhớ và dễ tu. Trên hai ngàn bài kệ dạy tu là hơn hai ngàn bài pháp để ứng dụng tu tập, từ phương tiện đến cứu cánh. Bài thơ đạo nào cũng chuyên chở tính văn hóa giáo dục, lòng từ bi, ba pháp tu Giới, Định, Huệ và Thân, Khẩu, Ý trong sạch, trọn lành.

“Ở đời muôn vật của chung,

Kiếp sống trăm năm cõi tạm.

Trí khôn ngoan sử dụng huyễn tài,

Lòng nhân đức rải gieo thiện cảm”.

……………………………………..

Thấy nghèo gặp ngặt,

mau ra tay cứu giúp,

chớ nề kẻ lạ người quen;

Tối lửa tắt đèn,

đừng ngoảnh mặt làm thinh,

như thể lòng đen dạ bạc;

Việc làm bố đức,

như trồng cây duyên phước,

hái quả gieo nhân;

Tiếng nói thi ân,

như rải giọt cam lồ,

người no mình mát.”

                       (Bố Thí)

“…Thân là tạm, cõi đời là tạm,

cánh bèo trôi bể thảm lênh đênh;

Tâm hằng bền, lẽ đạo hằng bền,

gót trí dạo rừng thiền thanh thản”.

                     (Đường Giải Thoát)

Cuộc đời của Ni trưởng luôn là vô ngã vị tha, do vậy tính chất “nhiêu ích hữu tình giới” không bao giờ thiếu vắng trong cái nhìn, sự nhận xét được diễn ra thành lời hoặc qua hành động của Ni trưởng. Thân giáo và khẩu giáo của Người dạy cho Ni chúng đệ tử học hiểu nhiều về tình thương quê hương đất nước và nhân loại. Ni trưởng thường dạy Ni chúng: “Ni giới Hệ phái Khất sĩ phải có tinh thần đoàn kết, lấy phương châm phục vụ Đạo pháp và chúng sanh dân tộc, làm kim chỉ nam cho cuộc sống tu hành. Vì vậy, các cô phải sống tập thể, làm việc, tổ chức lãnh đạo tập thể, không nên sống riêng tư”.

“Nguyện xin hiến trọn đời mình,

Cho nguồn Đạo Pháp, cho tình quê hương”.

Những điều đẹp đẽ, cao quý qua những lời giáo huấn của Ni trưởng được Ni chúng đệ tử, cho đến hàng Phật tử tại gia chúng con ghi nhận và cảm nhận được rất nhiều tấm lòng cao cả của Người. Bài viết hôm nay, chúng con chỉ xin điểm xuyết lại một vài điểm về công hạnh của Ni trưởng nhân ngày Lễ Tưởng Niệm lần thứ 30 Ni trưởng Viên Tịch nhằm 19 tháng 3 năm Đinh Dậu.

Giá trị nhân phẩm của con người có được là nhờ xây dựng trên nền tảng căn bản của đạo đức. Mất đi nền tảng đạo đức là mất đi nhân phẩm con người. Do vậy, dù là các bậc xuất gia “giải thoát” cũng nên làm gương nêu cao tinh thần hiếu đạo đối với Thầy Tổ, Người đã sanh thành ra giới thân huệ mạng. Việc Tưởng niệm các bậc Ân Sư là một việc làm thiêng liêng cao cả cần phải có. Vài dòng chữ thô thiển, hay một vài việc làm hình thức qua loa không giáo dục được cho thế hệ mai sau hay cho hàng cư sĩ Phật tử tại gia những gì mà các bậc Thầy đã hy hiến cho Đạo và Đời. Thắp sáng con đường đạo đức, nhân bản của Phật giáo, ghi nhận lại những tấm gương sáng ngời đạo hạnh là sứ mạng, là trách nhiệm của các vị xuất gia cho thế hệ mai sau được kế thừa.

Con thành tâm đảnh lễ Giác linh Ni trưởng. Kính nguyện Người vì Bi nguyện độ sanh, hồi nhập Ta bà tiếp tục con đường hoằng dương Phật Pháp.

 

NI SƯ KIÊN LIÊN

Trụ trì TX. Ngọc Tường, Trảng Bàng

NGỌC UYỂN MỘT CHIỀU MƯA

“…Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách,

Sắc bất ba đào dị nịch nhân…”

Thật vậy, mưa không phải sắt thép mà giữ chân lữ khách, sắc chẳng phải là sóng gió mà có thể làm chìm đắm con người.

Trong lúc chờ mưa tạnh, bất giác tôi nhớ đến hai câu thơ này mà mĩm cười với chính mình. Tôi chẳng phải là lữ khách lỡ đường bị cơn mưa đầu mùa làm cản lối đi, tôi cũng chẳng phải là trang quốc sắc thiên hương có thể dìm chân người khác. Nhưng từ trước đến giờ có biết bao nhiêu tao nhân mặc khách cũng bởi vì cơn mưa vô tình, một cái nhìn hữu ý mà đau khổ trầm luân, trở thành bản trường ca thiên cổ hận…

Giọt nước mưa theo cơn gió bay tấp vào mặt làm tôi bất giác giật mình, quay trở về thực tại. Tôi đang trên đường tìm đến Tịnh xá Ngọc Uyển ở Biên Hòa theo lời dạy của Sư Phụ. Lần đầu tiên đặt chân đến đây, đối với tôi cái gì cũng xa lạ, ngỡ ngàng.

Sau khi mưa tạnh tôi đến Tịnh xá Ngọc Uyển tìm gặp Ni trưởng Đệ nhất, tôi không biết mặt Ni trưởng nên đến xá chào và hỏi một Sư Bà đang loay hoay bứng gốc cây xoài khô: “Kính bạch Sư Bà cho con gặp Ni trưởng Ngọc Phương”. Sư Bà ngước mắt nhìn tôi cười hỏi một cách hóm hỉnh: “Con không biết mặt Ni trưởng sao?”, “Mô Phật không ạ” tôi đáp. “Con chỉ nghe Sư Phụ bảo Ni trưởng thấp người, có khuôn mặt phúc hậu, nụ cười sảng khoái và luôn đeo đôi kính cận”. Sư Bà mỉm cười hỏi Sư Phụ tôi là ai, đến đây tìm Ni trưởng để làm gì, rồi bất chợt hỏi tôi có biết bứng gốc cây không? Theo lời dạy của Sư Bà tôi bứng liền mấy gốc cây xoài, cứ mỗi lần một gốc cây xoài được bứng lên khỏi mặt đất Sư Bà đều cười rất sảng khoái, còn tôi thì rất lo lắng vì sợ không còn xe để về lại Sài Gòn, tôi sốt ruột hỏi “Bạch Sư Bà, Ni trưởng Ngọc Phương có ở đây không ạ?”. Sư Bà kéo xệ cặp mắt kiếng xuống nhìn tôi cười một cách hóm hỉnh “con cứ bứng mấy gốc cây này dùm Bà, một chút Bà chỉ Ni trưởng cho”, tôi nói với Sư Bà về sự lo lắng của tôi, Sư Bà nghe xong cười nói “ngày mai Bà cho con có giang về Sài Gòn”, “dạ nhưng mà…”, “Ni trưởng là Bà nè”, tôi hốt hoảng chấp tay xá Ni trưởng và xin lỗi rối rít, “không sao, tối nay Bà sẽ viết cho Sư Phụ con một lá thư, Sư Phụ con sẽ không rầy đâu”. Tôi mỉm cười nghĩ “Chân nhân trước mặt mà không biết” rồi thở phào nhẹ nhỏm. Tôi vừa tiếp tục bứng gốc cây vừa len lén nhìn Sư Bà, đôi mắt sáng long lanh sau vòm kính trắng ngời lên một trí tuệ kiên định và lòng nhân hậu bao la. Nự cười thân thiện nhưng không kém phần nghiêm nghị làm tôi không bao giờ quên được. Có lẽ, chính ánh mắt và nụ cười ấy dõi theo tôi từng bước trưởng thành, giúp tôi vượt qua bao nhiêu nghịch cảnh sau này.

Vài hạt mưa rơi lát đát trên người, trời cũng bắt đầu sụp tối, Ni trưởng bảo tôi vào trong nghỉ ngơi, sáng mai Ni trưởng về Sài Gòn họp sẽ cho tôi quá giang.

Sáng hôm sau tôi dậy rất sớm theo chúng công phu, ngồi thiền, sau khi điểm tâm Cô Huệ Tâm nay là Ni sưchở Ni trưởng và tôi bằng xe honda về Sài Gòn. Trên đường đi, Ni trưởng dạy cho chúng tôi rất nhiều điều hay lạ trong cuộc sống, tôi yên lặng lắng nghe như khắc vào tận tâm khảm mình những điều dạy của Ni trưởng. Đến Hàng Xanh Ni trưởng chỉ tôi lối đi xe bus về Tịnh xá Ngọc Hòa - Phú Lâm. Tôi xuống xe kỉnh xá Ni trưởng mà lòng tràn ngập nhiều cảm xúc khó tả.

Tôi gặp Ni trưởng vào một buổi chiều mưa trên Tịnh xá Ngọc Uyển, tuy ngắn ngủi nhưng theo tôi đó là cuộc gặp gỡ đầy định mệnh. Bởi vì, từ cái duyên gặp gỡ ấy, tôi được Sư Phụ cho đi học (học tiếp Bổ túc văn hóa cấp III), được thọ y bát; tôi bắt đầu thích vẽ tranh, thích làm thơ và đặc biệt rất thích xem Chơn Lý của Tổ sư và miệt mài nghiên cứu kinh điển.

Rồi sau năm 1987 định mệnh ấy, Ni trưởng đệ nhất và Sư Phụ lần lượt thuận thế vô thường ra đi, tôi bổ sung kiến thức Phật học qua những trường lớp chính quy Cơ Bản Phật học khóa I và Cao Cấp Phật học khóa III (Nay là Học Viện PGVN) để làm tiền đề cho học nghiệp về sau. Năm 2009 từ Trung Quốc trở về Việt Nam với học vị Tiến sĩ, tôi liền trở về Tịnh xá Ngọc Phương để đảnh lễ Chư Ni trưởng. Trước di ảnh và bảo tháp Ni trưởng Đệ nhất tôi âm thầm phát nguyện, đem tất cả thân mạng tài sản chính mình hoằng pháp lợi sanh, để đền đáp thâm ân Ni trưởng và Sư Phụ trong muôn một.

Gần mười năm trôi qua tôi chưa một lần xao lãng hạnh nguyện của mình. Dư âm một chiều mưa nơi Tịnh xá Ngọc Uyển luôn còn đâu đây như ngày đầu tiên mới gặp. Một nhà thơ đã bảo: “Người đâu gặp gỡ làm chi. Trăm năm biết có duyên gì hay không ?”. Thế nhưng, với tôi sự thành tựu hôm nay là nhờ có Ni trưởng và Sư Phụ gia hộ, “cái duyên gặp gỡ” ấy làm cho hành trang của tôi luôn phong phú đủ sắc màu, bởi đầy ấp những lời dạy bảo của chư vị Ân sư. Quả thật là:

Cảm cảnh vô thường “nhân thân nan đắc”,

Ngộ pháp chân thường “Phật pháp nan văn”.

Kim đắc nhân thân thinh văn Phật pháp,

Hậu đắc chân thân thế thế lưu truyền.

 

CẢM TÁC

“...Ngọc chéo áo vô tình chẳng biết,

Cam chịu nghèo rên xiết khổ đau.

Mặt trời ở tại đỉnh đầu

Mặt trời nào phải xa đâu kiếm tầm…”

               (Bạc Hạnh – NT. Huỳnh Liên)

Đây là bốn câu thơ của Ni trưởng viết trong bài “Bạc Hạnh”, nói về tấm lòng một người Thầy chắc chiu nuôi nấng đàn con dại, dạy dỗ nâng niu từng bước đầu đời; Thế nhưng người đệ tử ấy quay lưng lại với chính người Thầy của mình sau khi đã khôn lớn trưởng thành.

Thuở mới bắt đầu xuất gia học Phật, ai ai cũng dại khờ trong tất cả mọi oai nghi, trong mỗi lúc mỗi nơi dù là đi đứng hay nằm ngồi đều rất vụn về. Thầy như người Mẹ hiền ấp ủ chắc chiu dù trò đó “đắng the chua chát”, bởi “trái còn non” nên trò lớn khôn lại “phụ bạc công Thầy”.

Hình ảnh viên ngọc trong chéo áo là một hình ảnh rất sống động được Ni trưởng mượn trong Thất Dụ của Kinh Pháp Hoa để chỉ cho Phật tâm, tánh giác, như hạt minh châu vô giá, luôn hiện hữu trong mỗi một chúng sanh.

Trong Kinh Pháp Hoa Phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Ký có nói đến Hệ Châu Dụ (còn gọi là Y Châu Dụ). Chuyện kể rằng có kẻ đến nhà bạn thân, say rượu nằm ngủ, người bạn có việc phải ra đi, nên đem viên ngọc vô giá buộc vào trong áo của người ấy. Người ấy ngủ say, không hay biết gì cả, đến khi tỉnh dậy bèn lang thang đến xứ khác, làm ăn rất cực nhọc và kiếm được chút ít tự cho là đủ. Về sau người bạn gặp lại, thấy bạn vất vả cầu thực mưu sinh mà phải kêu lên: “Sao anh đến nông nỗi này. Trước đây muốn cho anh vui thú nên tôi đã đem viên ngọc vô giá buộc vào trong áo của anh, nay ngọc đang còn kia, sao anh không hay biết để phải tự kiếm sống khó nhọc như vậy. Anh thật khờ dại, hãy đem viên ngọc ấy đổi lấy những thứ cần dùng, thì không còn thiếu thốn gì nữa”. Đức Thế Tôn cũng vậy, khi Ngài còn làm Bồ tát, đã gieo vào mỗi chúng ta chí nguyện tối thượng, chí nguyện cầu tuệ giác của Bậc Toàn giác. Nhưng chúng ta lại quên đi, không hay biết gì hết. Được Tuệ giác La hán tự cho là đã chứng được Niết bàn, như kẻ kiếm sống cực nhọc, có được chút ít tự cho là đủ. Trong khi đó chí nguyện nói trên vẫn còn y nguyên. Đến khi được Đức Thế Tôn thức tỉnh, chúng ta mới hay rằng cái mà chư vị Thanh văn, Duyên giác, ngay cả Bồ tát đạt được cũng chưa phải là Niết bàn cứu cánh. Nhưng qua đó, chúng ta cũng nhận ra rằng trong mỗi chúng sanh đều có tánh giác, đều có viên minh châu vô giá, đó chính là Phật tâm, là sự sáng suốt vô ngại.

Mặt trời chân lý luôn trên đỉnh đầu nhưng chúng ta cứ dong ruổi tìm cầu, đến khi mòn hơi kiệt sức mới tự nhận ra “Mặt trời nào phải xa đâu kiếm tầm”. Trong Kinh Pháp Hoa Đức Như Lai dùng tất cả phương tiện thiện xảo của Ngài qua những thí dụ, mục đích cũng để cho chúng sanh thấy tam giới là nhà lửa, chúng sanh, thậm chí là hàng Thanh văn, Duyên giác là những kẻ cùng tử, những kẻ có chút ít tự cho là đủ. Chúng sanh dù sang hèn, thiện ác, lợi căn hay độn căn cũng đều từ một cõi đất mà ra, cũng đều có cùng một quê hương xứ sở. Nhưng chúng sanh hầu như quên mất nguồn gốc cao quý của mình, lang thang trong ba cõi khổ đau bất tận. Một trận mưa pháp của Như Lai rưới xuống thấm nhuần một vị giải thoát, nhưng tùy theo căn tánh mà mỗi người tiếp nhận khác nhau. Chúng sanh nói chung cũng như hàng Thanh văn, Duyên giác, đang tiến lên trên con đường giác ngộ trở về Bảo sở, nhưng đi qua đoạn đường dài dằng dặc ấy, dường như ai nấy cũng đều mệt mỏi, kiệt sức. Đức Thế Tôn bèn phương tiện hóa ra thành quách (Hóa thành) cho mọi người nghỉ ngơi. Vậy mà không ít kẻ tự nghĩ rằng mình đã đến được nơi cần đến, đã đạt được mục đích tối hậu. Trong mắt của Như Lai, chúng sanh thật đáng thương. Chúng sanh là những kẻ có sẵn châu ngọc mà không biết đem ra sử dụng, cam tâm chịu đói nghèo để tha phương cầu thực mưu sinh. Đức Thế Tôn là đấng cha lành, là một vị lương y cho thuốc hay, có thể cứu chúng sanh thoát khỏi tam độc hành hạ đau khổ. Mặc dù có vị thuốc hay Như Lai ban tặng, nhưng chúng sanh không phải ai cũng chịu uống. Kẻ đánh mất bản tâm, không biết đây là vị thuốc hay nên không chịu uống đã đành. Ngược lại, có kẻ tuy biết thuốc hay nhưng còn mê muội, lười biếng mà không chịu uống. Những ai tinh tấn diệt trừ được ma chướng một cách oanh liệt, tiếp nhận và tu tập giáo pháp Như Lai để đạt được mục đích tối hậu, giác ngộ Chân lý, những người đó mới xứng đáng nhận viên minh châu vô giá của Đức Như Lai.

Hôm nay nhân ngày Lễ Tưởng Niệm 30 năm hóa thân trong cõi vô thường của Đệ nhất Ni trưởng, nhìn lại Ni chúng Khất sĩ đã, đang và sẽ từng bước hoàn thiện, trưởng thành trong ngôi nhà Giáo hội Phật giáo, ai ai trong chúng ta cũng không làm sao tránh khỏi xúc động. Những bước chân hoang lạc loài của những người con trong bài “Bạc Hạnh” sẽ nhẹ gót quay về trong tình thương bao la của Chư Ni trưởng.

Hệ Châu Dụ (hay Y Châu Dụ) là một trong bảy thí dụ nổi tiếng, đó là những thí dụ có tầm ảnh hưởng lớn đối với đời sống tu hành, cũng như trong nhiều sáng tác văn chương Phật giáo. Đệ nhất Ni trưởng đã dùng “Như Lai thần bút” của mình, minh họa cho chúng ta thấy được Đức Thế Tôn muốn chỉ dạy cho chúng ta cần phải có niềm tin vào con đường giải thoát. Nhưng không phải niềm tin thông thường, mà tin vào mình, vào chính khả năng thành Phật của mình, để sẳn sàng vứt bỏ mảnh đời nghèo khó, phát huy viên ngọc minh châu vô giá vốn có, để thừa hưởng gia tài Pháp bảo đồ sộ - gia tài Chánh pháp của Như Lai. Có như vậy chúng ta mới xứng đáng là người con gái của Phật, là người Nữ Khất sĩ với hạnh nguyện cao cả “Thượng cầu Phật đạo, Hạ hóa chúng sanh”.

 

NI SƯ NGUYỆN LIÊN

TX. Ngọc Duyên, Bình Thạnh

NI TRƯỞNG HUỲNH LIÊN - CUỘC ĐỜI, ĐẠO HẠNH VÀ THI CA

1. Ni trưởng Huỳnh Liên: Cuộc đời và hạnh nguyện

Ni trưởng Huỳnh Liên, thế danh Nguyễn Thị Trừ, sinh năm 1923, là trưởng nữ trong một gia đình thấm nhuần Nho giáo và đạo đức Phật giáo. Bằng nếp sống chân chất nông nghiệp, ngày ngày tiếp cận với đồng nước mênh mông, tâm hồn thảnh thơi, chẳng đua chen danh lợi, tính tình điềm đạm, hòa nhã, ít lân la, giao du lãng phí thời gian, đặc biệt là người có một tấm lòng từ bi bao la, luôn trân trọng, yêu thương từng loài vật nhỏ. Do ảnh hưởng này, nên đức tánh của Ni trưởng rất bình dị, hiền hòa và bác ái. Thuở thiếu thời tuy đường học vấn của Ni trưởng do hoàn cảnh gia đình đành bỏ lỡ việc học. Tuy nhiên nhờ bẩm tánh thông minh, hiếu học, biết tiếp cận với tư tưởng mới, hằng suy tư, tìm tòi, học hỏi theo gương hạnh, khí tiết của các bậc hiền tài, đức hạnh, đồng thời cũng nhờ sự trợ duyên, un đúc về Văn hóa, Pháp văn, Văn chương, Thi phú của người Cậu. Ngoài ra, Ni trưởng còn được bà ngoại tận tình chỉ dạy môn học Hán văn đạt đến trình độ tương đối thông thạo, nên sở học của Ni trưởng này một thăng tiến.

Về tín ngưỡng Phật giáo, từ nhỏ Ni trưởng đã theo bà ngoại đến chùa lạy Phật, ham học kinh sách Phật, khi rảnh tập làm thơ văn, lại thêm trưởng thành trong một xã hội ngập tràn chiến tranh, luôn nhìn thấy cảnh chế độ thực dân đàn áp, bóc lột bất công đối với dân lành, nên ngay khi còn đời sống tại gia, người đã tham gia trong công cuộc giành chính quyền cùng với các chị em phụ nữ hầu bảo tồn lực lượng cách mạng. Song song với chí nguyện yêu nước thương dân như trên, Ni trưởng vốn ôm mang hoài bão sống đời thanh thoát với hạnh nguyện tự lợi, lợi tha đúng với tinh thần thị hiện của Đức Phật: “Vì muốn đem lại hạnh phúc và an lạc cho số đông, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người”([1]). Thế nên đến năm 25 tuổi, nhân duyên hội ngộ đức Tổ Sư trong lần hành đạo tại Phú Mỹ, sau khi nghe Tổ Sư thuyết pháp, thấu hiểu lý đạo, triệt ngộ kiếp nhân sinh giả tạm, chỉ có đời sống xuất gia mới khai mở huệ mạng, giúp Người nâng cao phẩm hạnh, thực hiện tốt chí nguyện phụng đạo, giúp đời, lợi tha, viên mãn. Vậy nên Ni trưởng quyết định xuất gia, sống đời du phương hành đạo, nối hạnh Thích Ca hoằng hóa chúng sinh, hoàn thành bổn hoài.

2. Ni trưởng Huỳnh Liên: Người tiếp nối tinh thần yêu nước thương dân

Kế tục sự nghiệp của Chư Tổ, Ni trưởng Huỳnh Liên, một tu sĩ thời cận đại, là hàng xuất gia và có tài năng về văn học, những sáng tác của Ni trưởng đều thể hiện tinh thần yêu nước, lý tưởng phụng đạo, giúp đời, với chí nguyện to lớn:

Nguyện xin hiến trọn đời mình,

Cho nguồn Đạo Pháp cho tình Quê hương.

Du hành khắp nơi, tiếp xúc vô số hàng tín chúng, đối với xã hội và nhân sinh, Ni trưởng luôn ứng dụng mọi phương tiện để thân cận, thấu triệt tâm tư, hiểu được niềm vui, nỗi khổ của từng cá nhân mỗi người. Vì thế những áng văn thơ của Ni trưởng đã biểu hiện nội dung rất thực tế, Ni trưởng đã dùng những sự vật, hình tượng cụ thể, miêu tả nét đẹp tự nhiên của cảnh vật với tình người thân thương để gợi phát lòng hướng thiện của tha nhân. Khiến mọi người thông qua những thí dụ, hình tượng biểu hiện trong thơ văn để lĩnh ngộ chân lý. Do vậy, giáo sư Hoàng Như Mai đã từng tán thán rằng: “Tôi mạnh dạn khẳng định: Đây là những áng thơ trữ tình đặc sắc: Tình với người, với cảnh, với thầy, với đệ tử, với đất nước quê hương, với bạn bè, người thân… Nếu tôi không nhầm, các bài thơ này thường là ngẫu cảm, ứng tác và điều này chứng tỏ Ni trưởng rất nhạy cảm đối với những cái đẹp, cái đau, cái vui, cái đáng thương trong thế gian”[2]. Quả thật thơ văn của Ni trưởng thường kết hợp với cuộc sống cụ thể, thực tiễn và bình dị, liên hệ đến cuộc sống giữa đạo và đời, thật đúng với lời cảm niệm của giáo sư Hoàng Như Mai khi đọc thơ Ni trưởng: “Đấy là những cụm hoa không phải kén chọn, ương trồng, chăm sóc với những công phu dành riêng cho các loài hoa quý hiếm trong các nơi thượng uyển, mà là hoa đồng, hương quê rất mộc mạc, thân mật với chúng sinh; Ai cũng có thể và nếu ưa thích thì dễ dàng hái lấy để cài lên mái tóc hay đem về cắm ở nhà, không bị ngăn cấm gì hết vì là của chung, của mọi người, mang trong người, để trong nhà, hương thơm lan toả khắp nơi, ai đến gần cũng được thơm lây. Đó là cái cách Ni trưởng đem Đạo pháp đến cho mọi người”[3].

Ngoài ra, Giáo sư còn cho rằng: “Ni trưởng Huỳnh Liên xứng đáng là bông sen vàng trước Phật đài. Ni trưởng đã viên tịch, nhưng tư tưởng, tình cảm, hành động, tất cả con người của Ni trưởng vẫn còn lại trong những vần thơ cao đẹp”[4].

3. Thơ của Ni trưởng Huỳnh Liên

3.1. Tư tưởng Phật học trong thơ của Ni trưởng Huỳnh Liên

Ảnh hưởng và kế thừa tinh thần lợi đạo giúp đời của tăng đoàn Phật giáo vốn có từ nhiều thời đại xa xưa, cộng thêm trình độ tu học và phẩm đức cao thượng được un đúc, bồi dưỡng với tài cao đức trọng, thậm chí còn khéo giỏi về văn chương thi phú. Ni trưởng Huỳnh Liên, hình ảnh bậc nữ lưu “xuất gia với hạnh nguyện làm chiếc thuyền chở chuyên phái nữ”. Như trong bài Con nguyện, Người đã từng thố lộ:

Con nguyện hiện thường kiếp nữ nhân,

Bởi bao phụ nữ khổ trong trần.

Tiện bề thân thiện con dìu dắt,

Dầu phải cực lòng lốt phụ nhân.

Con nguyện đời đời độ chúng sinh,

Bao nhiêu cực nhọc cũng cam đành.[5]

Thông qua lời thơ với đầy sự thông cảm cho cuộc đời người phụ nữ, Người sẵn sàng hy sinh thị hiện kiếp nữ nhân để cận kề, đồng sự với phái nữ, hầu dắt dìu, khuyên nhủ, động viên, thúc đẩy họ tu hành, chỉ dạy con đường bỏ ác làm lành, phát tâm thực hiện tinh thần Bồ tát đạo, cải sửa những tư tưởng xấu ác, chấp thủ, làm tất cả những gì mình có thể làm được, chỉ với mục đích cứu khổ ban vui. Đồng thời tiếp dẫn họ cùng tiến bước lên thềm giác ngộ giải thoát. Tâm nguyện này được thể hiện rõ nét hơn qua bài Sức Chịu Đựng:

Người dẫn chúng khác nào quả đất,

Để chúng sinh, chứa chất nặng nề.

Hỡi ganh, hỡi ghét, hỡi bì,

Hỡi phiền, hỡi hận, hỡi ai, hỡi lầm.

Cam chịu đựng muôn vàn sức nặng,

Chất bao nhiêu quyết chẳng nản lòng.[6]

Do vậy sau khi xuất gia, được Tổ Sư thọ ký là bậc lãnh đạo bên Ni chúng, Ni trưởng luôn sẵn sàng chấp nhận bao gian lao, khó nhọc, chẳng màng danh lợi, chẳng nệ thị phi, miễn sao đem lại lợi ích, an vui cho chúng sinh. Cũng có thể nói, bằng tâm lượng từ bi bao la, rộng lớn, kết hợp với trí tuệ tu dưỡng của tự thân, Ni trưởng luôn tùy thuận với mọi hoàn cảnh, sẵn sàng xông pha với mọi chướng duyên, hầu cứu giúp nhân sinh thoát khổ. Trong bài Lên Đường Cứu Khổ, quả thật miêu tả hết sức linh động ý chí vì người quên mình, vì vậy khi chứng kiến cảnh người với người cứ mãi lo tranh đấu, giựt giành, khiến Ni trưởng vô cùng đau lòng, xót dạ đã thố lộ với lời thơ đầy cảm xúc:

Đời vì lợi ngã khởi tương tranh,

Đạo phải duy tha mới thái bình,

Lưới rập vô tình ai có biết,

Lòng ta, ta cứ giữ cao thanh.

Đi đi, ta quyết dấn thân vào,

Chốn khổ đau mà sớt khổ đau.

Người Việt lâm nàn người Việt cứu,

Tương thân tương trợ nghĩa đồng bào.[7]

Ni trưởng không những với lý tưởng cao đẹp, nguyện đem thân mình phục vụ chúng sinh, dù là chân yếu, tay mềm, nhưng quyết tâm tận tụy, vượt qua tất cả trở ngại, chỉ một lòng hướng dẫn nhân loại tu tập hầu đạt đến chỗ chí thiện, trong sạch, giải thoát khỏi cảnh khổ tử sanh. Lý tưởng này đã nêu lên một gương hạnh Bồ tát tuyệt đẹp, Người luôn ấp ủ một tình cảm đầy lòng từ bi, ý chí dũng mãnh, hết lòng vì dân, vì đạo, hầu đáp đền công ơn sâu đậm đối với Thầy Tổ. Tinh thần này được diễn đạt với lời thơ mộc mạc, bình dị trong bài Hoài Niệm, nhưng rõ ràng đã toát lên một tâm ý cao thượng của người tu đạo:

Sức dầu yếu, mong tát vơi biển khổ,

Tay dầu mềm, toan phá đổ non sầu.

Nức tiếng lành, Đạo thạnh khắp đâu đâu,

Rạng danh Đấng buổi đầu khai Pháp giáo.[8]

Trong thơ Ni trưởng không những biểu hiện phương tiện tu Phật, độ chúng, hướng dẫn chúng nhân tiến đến thiện lành và chứng đạt cảnh giới Niết bàn. Mặt khác, thơ văn còn biểu hiện nhiều yếu tố có chiều sâu, thường quan tâm đến mọi lĩnh vực trong đời sống của dân chúng, đất nước, xã hội cho đến thế sự đổi thay. Như bài Mảnh Đất Phước Duyên qua lời thơ rất gần gũi và bình dị đã gợi nhắc cho chúng ta biết, sự thế vô thường, nhân sinh vô ngã, chớ nên chìm đắm vào cảnh đời huyễn giả. Từ lời thơ giáo huấn, giúp con người suy tư và khuyên người người hãy sống lương thiện, ngay thẳng, chân thật, tốt Đạo, đẹp Đời:

Nẻo thế sự trăm phiền ngàn tủi,

Cuộc sống còn nhiều rủi, ít may.

Tiêu hao tháng rộng năm dài,

Nhọc nhằn vì của, của hay đổi dời.

Sao bằng cảnh thảnh thơi yên tịnh,

Để cho người sửa tánh trau tâm.

Hành trang diệu Pháp thậm thâm,

Lên đường độ khách, mê lầm tỉnh tu.[9]

Đọc xong bài thơ, rõ ràng cho thấy tình huống sáng tác nêu lên đặc trưng quan trọng với cảm hứng đột ngột, ngẫu nhiên biểu hiện sự tươi sáng trong tâm hồn tác giả. Ngoài thơ triết lý Phật giáo vạch cho nhân loại hướng đi tích cực, đồng thời cũng khẳng định cho mọi người biết tin vào trí lực kết hợp với sự tinh tấn, chuyên cần tu tập cải ác, làm lành, chuyển vọng thành chân của chính mình và tích cực phục vụ chúng sinh. Không những thế Ni trưởng còn sử dụng trí tuệ giáo hóa, khai mở cho chúng sinh nhận chân được chân lý qua hình ảnh sống động từ mái chèo, sóng nước cùng sự giong thuyền trên biển trần. Như bài Mộng Trần:

Chèo đạo pháp, ấy công phu thiền định,

Gió nhân duyên tức cảnh ngộ nung mình.

Nước phẳng lặng, như tánh chân yên tịnh,

Ngọn trào lòng, là lượn sóng chông chênh.

Ráng cẩn thận, khi giong thuyền mặt biển,

Sự nguy nan, là một phút thờ ơ.

Mà đừng ngại cuộc hành trình diệu viễn,

Hễ nhất tâm, trong nháy mắt đến bờ.[10]

Rõ ràng trong thơ, Ni trưởng không chỉ nhấn mạnh tính triết học xử thế, ngoài ra chủ yếu còn khẳng định tính tương đối trong sự vật. Qua đó cho thấy, Ni trưởng làm thơ phần lớn chính là để vui đạo, khẳng định kiếp nhân sinh, biểu hiện thú vui với thiên nhiên. Chính vì thế ý thơ của người rất tự nhiên, luôn kết hợp với cảnh giới thiên nhiên như núi rừng, sông nước, trăng thanh, gió mát… như bài Vui mà Sống:

Non và biển giúp ta thêm bài học,

Non muốn cao nên non đứng một mình.

Biển bao la mà biển thật hữu tình,

Đã thâu được vào lòng ngàn sông rạch.[11]

Hoặc bài Lội Dưới Bãi Biển:

Huỳnh đạo mênh mang nước lẫn trời,

Liên hoa thơ thới giữa nguồn đời;

Lội ngang qua khỏi giòng sanh tử,

Biển ái dầu nguy dễ đắm người![12]

Thông qua những bài thơ với nhiều hình tượng, màu sắc cùng cách miêu tả khác nhau. Từ đó có thể thấy rất rõ, Ni trưởng thường quan sát thiên nhiên, cảnh vật, rồi cảm tác với lời lẽ, văn từ tự nhiên, tuy không quá chải chuốt, nhưng súc tích tình cảm chân thật đối với người dân, đối với đất nước. Cũng có thể nói, Ni trưởng đã biểu thị tình cảm thương xót, vô cùng khéo léo. Điều này bài Đứng Dưới Gốc Cây Dầu đã bộc lộ tâm trạng cảm xúc của tác giả trong trách nhiệm. Chính đó là tình cảm trác tuyệt, khiến cho người đọc nhận chân được cái đẹp cao thượng của vị Bồ tát hiện thân, tất cả vì nhân dân:

Một mình đứng giữa chốn rừng xanh,

Tự hỏi có nên lánh thị thành.

Đáp lại cảnh nhàn ta vẫn mến,

Nhưng còn phận sự với nhơn sanh.

Bởi còn phận sự với nhơn sanh,

Phải bước chân đi khắp thị thành.[13]

Hoặc bài Em Có Nghe Chăng?:

Em có hay chăng lũ trẻ thơ?

Mất cha, mất mẹ khóc bơ vơ!

Hoặc trong hầm rác, trong nhi viện,

Hoặc sống lầm than, sống dật dờ.[14]

Quả thật lời thơ với sự tràn đầy bi tâm, hòa cùng trí tuệ mạnh mẽ, thậm chí trong cách dùng từ hòa nhập tình cảm bi thương của con người:

Bàn tay đẹp là bàn tay “đạo đức”,

Xoa vết đau, xua tủi cực trần gian.

Tật bịnh nghèo, mê, dốt, goá, côi, tang,

Xô địa ngục, dựng Niết Bàn giải thoát.

Lại nữa, qua sự quan sát tinh tế từ đời sống, lao động của những người dân cực nhọc, Ni trưởng còn mượn cảnh tượng đời sống thiết thực để tả người, cảnh… Điều này cho thấy lời thơ của Ni trưởng luôn biểu hiện sự cảm nhận thân thiết đối với đời sống chất phác, tận tụy, hăng say lao động của nông dân. Đặc biệt hơn nữa, trong lời thơ còn nêu bật tinh thần truy cầu những cảnh tượng hùng tráng rộng lớn, cùng hình tượng phóng khoáng và hào hùng của đấng Bồ tát có mặt trong khắp mọi nơi, mọi chốn ở cõi đời:

Không! Bàn tay đẹp là bàn tay “lao động”,

Chuyển đường gân dâng sức sống cho đời.

Hiện khắp nơi và ở khắp nơi nơi,

Như đất nước như khí trời vũ trụ.

Không những thế, trong thơ ca Ni trưởng còn ca ngợi tinh thần hào hùng, tràn đầy sức sống, luôn tin tưởng và gởi gắm niềm tin vào các anh hùng chiến sĩ:

Bàn tay đẹp là bàn tay “chiến sĩ”,

Chống xâm lăng cho bờ cõi thanh bình.

Cởi xiềng gông cho dân tộc trưởng thành,

Gầy vận hội quang vinh cho Tổ Quốc.[15]

Có thể nói trong cách vận dụng thể thơ, Ni trưởng thường dùng phương thức đột phá vốn có, khiến người đọc cảm nhận được mùi vị mới lạ, đồng thời đã hấp thụ những đặc điểm giản lược, ngắn gọn, súc tích. Điểm thú vị hơn nữa, trong lời thơ Người còn vận dụng những cú pháp liên tục, tạo cho người đọc cảm giác ý thú và nhịp điệu lưu loát sinh động. Đây chính là phong cách lý tưởng mà Ni trưởng tác ý theo đuổi trong lúc làm thơ. Vừa theo đuổi cái đẹp tự nhiên, vừa biểu hiện được tâm đạo sâu lắng, lý trí trong từng bối cảnh, lại ý thức trách nhiệm với non sông, đất nước và dân lành. Nhờ thế, thơ văn đạt đến một cảnh giới nghệ thuật hoạt bát, khéo léo của ý cảnh. Tất cả đều lấy thế giới tự nhiên làm tiêu chuẩn bậc nhất. Thứ đến là tác giả muốn cho người đọc nhận thức cái đẹp thẩm mỹ trong đời sống và cảnh vật, dần dần đưa họ đến với tư duy, triết lý thâm sâu và thâm nhập đạo pháp, để người đọc hiểu được và giúp họ mở rộng tầm nhìn của chính mình. Đồng thời cũng điều chỉnh được thế giới quan trong chính họ, khiến tâm linh và hành vi của người đọc đạt đến cảnh giới cao xa.

Cũng có thể nói, Ni trưởng đã biết linh hoạt kế thừa truyền thống “dùng văn tải đạo”, tức dùng nghệ thuật thơ văn hài hòa với đạo pháp, để thu phục lòng người qua văn chương tác tuyệt như bài Văn với Đạo, Người đã nhẹ nhàng nhắn nhủ nhân loại qua sự quán thấy vũ trụ nhân sinh biến đổi, từ đó thể nghiệm triết lý sâu sắc, ý vị sâu xa từ các pháp. Bên cạnh đó còn giúp họ thấu rõ kiếp sống tương quan, cảm nhận sự trong sáng, hồn nhiên của từng cảnh vật. Điều này như nhắc nhở nhân loại hãy yêu thương nhau, sống vì nhau, chan hòa lẫn nhau, cũng như thơ và đạo chẳng tách rời nhau:

Văn có đạo cội bền cây tốt,

Đạo nương văn ý tột lý mầu.

Lá cành sầm uất bền lâu,

Văn chương đạo đức cùng nhau độ đời.

Một đoạn khác lại khẳng định:

Pháp thâm diệu văn từ thâm diệu,

Văn phi thường pháp hiểu phi thường.

Văn truyền pháp hiển hoằng dương,

Văn phò lấy đạo một đường dung thông.[16]

Với ý vị tuyệt vời của những vần thơ trên, trong đó bao hàm những thí dụ mới lạ, sự cảm nhận trong sáng thấm đượm tình người, từng cái thấy bất công, bất hạnh của người dân trong xã hội, Ni trưởng vô cùng đồng tình với nỗi đau của nhân loại. Đây chính là tiêu biểu sự cao siêu, tuyệt vời và tươi đẹp trong tâm hồn người Khất sĩ cũng là người thi sĩ. Tất cả đều biểu hiện qua đời sống giản dị, tầm nhìn cảm thông, yêu thương và đầy sức sống, hòa quyện với trí tuệ thấu triệt các pháp khi tiếp ứng với cảnh vật thiên nhiên và con người. Mỗi mỗi đều được Ni trưởng cảm hứng bằng lời thơ trong sáng, hòa dịu, nhưng giọng văn lại sắc bén, quả quyết. Vì thế Ni trưởng luôn nhắc nhở chúng Ni cùng hàng Phật tử:

Bồ tát chúng sanh danh tạm có,

Chơn như liễu ngộ gốc hoàn không.

Giác cùng bất giác nào riêng ngỏ,

Mê với không mê chỉ một dòng.

Niệm ngộ còn tâm, tâm chưa tỏ,

Huờn chơn chẳng biết, biết toàn thông.

Thâm ý của bài thơ trên đã nhắn gởi cho mọi người thông hiểu, Bồ tát và chúng sinh chỉ là giả danh, cả hai tự tính đều như nhau, chỉ sai khác ở chỗ mê và ngộ. Từ đó đưa dẫn người ngộ đạo sực tỉnh nhận chân rằng, sự giải thoát thật sự chẳng ngoài tâm mình. Thấu triệt chân lý này, chúng ta mới hưởng tận được cuộc sống ngọt ngào, mỹ mãn, tốt đẹp.

Với bút lực đồi dào nên đứng trước cảnh vật tầm thường Ni trưởng cũng có thể biểu hiện ý thú sinh động, hàm súc uyển chuyển, tình cảm thuần tịnh, cách điệu tráng kiện, cao xa. Đây cũng là cách kế thừa và phát triển đối với văn phong hàm súc uyển chuyển trong truyền thống. Có thể nói tác phẩm thi ca, trong phong cách chỉnh thể, sự miêu tả tự nhiên của Ni trưởng đã thể hiện đầy sức sống với lời văn đẹp đẽ, nhẹ nhàng, nhưng không kém sự hùng vĩ. Quan trọng hơn nữa, sáng tác của Người chỉ nhằm mục đích miêu tả tinh thần siêu thoát, hào phóng, qua đó thấy được thần thái của Người luôn trầm tĩnh và thanh thoát lạ lùng.

3.2. Giá trị thẩm mỹ trong thơ của Ni trưởng Huỳnh Liên

Nói đến văn thơ Ni trưởng Huỳnh Liên, với bút pháp khoáng đạt, kết hợp tâm hồn trong sáng, thanh cao, lấy cái đẹp thiên nhiên, sông nước hữu tình, con người, đời sống xã hội... làm đề tài trước tác, nội dung thơ phần lớn đều biểu hiện những kiến giải đặc thù thấu triệt kiếp sống nhân sinh, hòa quyện với nhân cách thanh cao, lòng từ bi bao la, sống vì mọi người, cùng trí tuệ thấu nhập chân lý, điều này được thể hiện trong bài Thuyền Trí Tuệ:

Năng nghiên cứu xét tìm chơn lý,

Gắng tham thiền tuệ trí phát sanh.

Sáng tâm tỏ tánh rành rành,

Tinh chuyên nhập định đắc thành thần thông.

Màn huyền bí bên trong hé mở,

Máy nhiệm mầu tỏ lộ lần ra.

Rõ ràng đạo quả đâu xa,

Chơn tu thành Phật, Phật là người tu.[17]

Đoạn thơ trên cho thấy tác giả đã nhận chân một cách sâu sắc rằng, trí tuệ thấu triệt chân lý và đạo quả chẳng qua là lối sống thể nhập lý tánh, tức sống với tâm tỉnh giác, sáng tỏ thì Phật chính là mình, mình chính là Phật vậy. Đây chính là nét đẹp thẩm mỹ bằng sự cảm nhận và truyền đạt qua tâm linh trong thơ Ni trưởng, giá trị của nó là miêu tả vẻ đẹp tối ưu của đời sống tỉnh giác. Chính đó là đạo, chẳng phải đâu xa, trong đó còn nhấn mạnh sự tin tưởng vào tự thân. Điểm đặc biệt ở đây là trong ý thơ Ni trưởng đã nêu cao nét đẹp về tinh thần bình đẳng giữa người với người.

Lại nữa, trong những đoạn thơ được dẫn chứng ở trên, từ hạnh nguyện làm người nữ như câu “Con nguyện hiện thường kiếp nữ thân, Bởi bao phụ nữ khổ trong trần” hoặc tự ví mình như quả đất, sẵn sàng hứng chịu tất cả những đau thương, cực nhọc trong đời “Người dẫn chúng khác nào quả đất, Để chúng sanh chứa chất nặng nề”. Đặc biệt là phép điệp ngữ “Hỡi ganh, hỡi ghét, hỡi bì…” trong bài thơ, Ni trưởng đã dùng nhịp điệu này để thể hiện mạnh mẽ ý chí sống và hy sinh vì mọi người. Đây chính là vẻ đẹp cao thượng, đầy đủ nhất trong tình người. Người biểu hiện bằng một tình cảm thân thương, chân tình, rõ ràng đã nêu bật một giá trị thẩm mỹ rất cao. Lại nữa, trong thơ Ni trưởng luôn biểu hiện tình cảm yêu thương và quan tâm đến đời sống nhân dân, đất nước. Hình ảnh hai câu thơ sau đã phản ánh rõ tâm tư của người làm thơ:

“Bởi còn phận sự với nhơn sanh,

Phải bước chân đi khắp thị thành”.

Thậm chí Người còn chú ý đến cuộc sống nghèo khổ, tật bệnh, mê lầm, chết chóc, mẹ góa, con côi… của người dân, nên đưa vào thơ rất tự nhiên những cảm xúc về “Tật bịnh, nghèo, mê, dốt, góa, côi, tang” của con người trong xã hội. Ngoài ra, những thảm cảnh đau thương do người tận mắt thấy nên tỏ lòng thương cảm “Em có hay chăng lũ trẻ thơ? Mất cha, mất mẹ khóc bơ vơ!”, hoặc hình ảnh những chiến binh vì dân, vì nước, vì sự thanh bình cho dân tộc như câu:

“Chống xâm lăng cho bờ cõi thanh bình.

Cởi xiềng gông cho dân tộc trưởng thành”.

Thông qua nội dung thi ca của Ni trưởng, thực tế cho thấy trong đó bao gồm rất nhiều thể loại và loại hình như: thơ thiền lý, thơ ngộ đạo, thơ ngẫu hứng, thơ trữ tình, thậm chí trong thơ tả cảnh cũng luôn phản ánh tình cảm thân thiết, quan tâm đến mọi cảnh huống của nhân loại. Đặc biệt hơn nữa, người thường mượn vật cảm tác, qua đó khiến người đọc cảm nhận được diệu lý thâm sâu trong Phật lý. Nên trong sách Ni trưởng Huỳnh Liên: Cuộc đời và Đạo nghiệp đã đúc kết rằng: Tác phẩm thơ ca của Ni trưởng Huỳnh Liên có hơn cả ngàn bài, gồm đủ 8 thể loại thơ, từ thể loại dân gian lục bát... cho đến bác học Đường luật, thể loại nào Ni trưởng cũng thiện xảo, tinh thông.[18]

Với ý thơ cao thâm, sâu đậm kết hợp với tính nghệ thuật cao độ, nét thẩm mỹ tự nhiên trong tình cảm yêu thương cùng cảm xúc khi quan sát, tất cả đã nêu bật những thành tựu về sự nghiệp thơ văn đối với đạo pháp nói riêng và nền văn học Phật giáo Việt Nam nói chung. Thế nên trong bài văn tế của Ni trưởng Đàn Liên đã từng cảm thán:

Pháp thi thơ tải đạo nhập đời,

Đời tải đạo theo thời độ thế;

Kinh Tam Bảo nương văn truyền đạo,

Đạo nương văn trụ thế đạo hành.[19]

Linh động hơn nữa, Ni trưởng thường thông qua lời văn mạnh mẽ, đan xen giọng văn nghị luận nhẹ nhàng, thông đạt và sắc bén, kết hợp với kết cấu bố cục mạch lạc, rõ ràng, tầng thứ phân minh. Tuy nhiên, mục đích làm thơ của Ni trưởng rõ ràng chỉ muốn khuyên nhắc hành giả tu tập cùng sách tấn chúng đệ tử kíp mau giác ngộ giải thoát. Vì vậy trong thơ văn Ni trưởng thường tổng hợp và đưa ra chân lý tu học rất thiết thực.

Do đây, trong lời nói đầu của quyển Đóa Sen Thiêng, người biên tập đã khẳng định rằng: “Người làm thơ là để giáo hóa môn sinh, mong cho đời hiểu đạo, Người muốn cụ thể hóa giáo lý uyên thâm của Đức Phật cho người đời khi nghe, khi đọc dễ dàng tiếp nhận”.[20]

Để khẳng định điều này, chúng ta hãy đọc lời bình phẩm chân tình của tác giả Vân Trang trong bài viết Nghĩ về cố Ni trưởng Huỳnh Liên “Là một người giỏi về văn thơ, Ni trưởng đã biên soạn phiên dịch ra tiếng Việt và phổ thành thơ rất nhiều bản kinh kệ từ chữ Hán để Ni chúng dễ học, dễ nhớ. Hiện nay hai bộ Kinh Tam Bảo và Tinh Hoa Bí Yếu đã được in thành tập gồm hơn sáu ngàn câu đủ thể loại, Đường luật, lục bát, song thất lục bát, ngũ ngôn, tứ tuyệt, thể văn tế biền ngẫu liên hoàn thập thủ, văn xuôi… gần như đủ các thể loại văn, và thể nào Ni trưởng cũng viết trơn tru, đối xứng hẳn hoi, phân tích đầy đủ lý tình. Và đặc biệt hơn nữa là tất cả dòng thơ tuôn ra dưới ngòi bút ấy đều chứa đựng lòng từ bi, bác ái, nhằm khuyên răn con người hướng thiện, dầu ở trong đạo hay sống ngoài đời. Và chính bản thân Ni trưởng cũng là một tấm gương sáng ngời về cái thiện mà chúng ta có thể thấy được trong cách đối xử của Ni trưởng đối với những người chung quanh, cũng như đối với đất nước, đối với dân tộc”.[21]

Với gương hạnh Bồ tát luôn ước mong tốt đạo đẹp đời và an lành cho thế gian, Ni trưởng đã thể hiện tình thương chúng sinh bằng cách hòa mình với tất cả mọi người, thậm chí xem họ như mẹ cha, anh chị, bạn, thầy kính thương. Điều này đã phản ánh rõ nét trong lời thơ với phong cách chất phác, giản dị, nhưng thấm đượm tình người. Song ở đây vì sự hạn định của bài viết không thể trích dẫn quá nhiều bài thơ. Có lẽ vì thế, mà trong lễ tang, khi viết lời cảm niệm, rất nhiều lời cảm khái chân thành thể hiện sự quý mến và trân trọng, như Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Nguyễn Vĩnh Nghiệp đã viết: “Ni trưởng Huỳnh Liên là một nhà đạo đức, chân tu, vừa là một nhân sĩ yêu nước nhiệt thành. Ni trưởng còn là một nhà thơ có tâm hồn cao đẹp”.[22]

Qua lời bình phẩm, đánh giá trên chúng ta có thể thấy được, Ni trưởng quả thật đã biểu hiện trí tuệ và lòng từ bi sâu sắc bằng tinh thần nhập thế sống động, đa dạng qua tư tưởng, văn thơ, song song với hành động hòa quyện, gắn bó cùng đời sống an vui hạnh phúc của nhân dân. Và phải chăng đó chính là nét đẹp thẩm mỹ tự nhiên, được đúc kết từ cảm xúc, yêu thương bằng tấm lòng vô ngã vị tha của bậc chân tu. Thế nên trong mỗi lời thơ, mỗi cảm nghĩ đều biểu hiện sự giáo hóa, giúp người nhận chân được chân lý, đồng thời cũng hướng dẫn họ sớm đạt đến bờ giác ngộ giải thoát. Để nêu bật điều này, chúng ta hãy chiêm nghiệm Lời tặng biệt của giáo sư Thuần Phong:

Lướt phong ba chèo vượt biển đời,

con thuyền giác cứu người khỏi luỵ.

Cây bút mực đề cao diệu lý,

lý thêm mầu, thêm tinh tuý kinh văn;

Nhờ đức tài điêu luyện chánh văn,

văn càng tuyệt, càng khai hoằng chơn lý.[23]

3.3. Thơ và Đạo của Ni trường Huỳnh Liên - nguyên tố góp phần tô bồi nền văn học Phật giáo Việt Nam

Nhắc đến sự đóng góp của Ni trưởng Huỳnh Liên, ngoài sự cống hiến về hoằng dương đạo pháp, phục vụ nhân loại, Người còn để lại cho Phật giáo nói riêng, và nền văn học nói chung một một sự nghiệp lớn lao về văn thơ Phật giáo. Nổi bật hơn, thơ văn của Ni trưởng không xa rời cuộc đời, bằng nghệ thuật sống động, gần gũi với người dân, thông qua sự quan sát cảnh vật núi rừng sông nước, người vật, đất nước, quê hương… Trong đó đã hàm chứa một triết lý sống, có thể giáo dục con người, đưa họ trở về với chính mình theo tinh thần đạo Phật nhập thế. Nói cụ thể hơn, đó chính là nét đẹp nhân văn, bằng một tâm hồn cao đẹp, thanh thoát, vô ngã, vị tha, vì mạng mạch Phật pháp, vì đồng bào, đất nước. Chỉ với một ánh trăng, dòng nước, chòm núi, cảnh vật nhà nông lam lũ với đồng ruộng hoặc đứng dưới gốc cây… cũng làm cho thi nhân miêu tả cái đẹp của chân lý, từ đó hướng dẫn người người tiến đến thế giới giải thoát, an lạc. Đó chính là lối sống của người đạt đạo, dù hoàn cảnh nào, hoặc ở nơi đâu, đối ứng trong môi trường nào, Ni trưởng đều có thể quyền biến, bằng hành động thấm nhuần trí tuệ và văn thơ để trợ đời, giúp đạo.

Chính vì thế trong quyển Kỷ yếu viếng lễ tang Ni trưởng, rất nhiều đoạn văn từ các bậc Lãnh đạo các cấp Chính quyền, chư vị Lãnh đạo Phật giáo, các Ban ngành, cũng như các Giới trí thức cùng hoạt động hoằng đạo cứu đời, hoặc tham gia đấu tranh bảo vệ nền hòa bình, hoặc tham gia phong trào cứu giúp, nuôi dạy, đào tạo, người nghèo khó, trẻ em tật bệnh, chiến sĩ thương binh, cô nhi côi cút… đều ca ngợi và tỏ lòng tiếc thương. Cụ thể là ông Huỳnh Tấn Phát thay mặt đoàn đại biểu UBTW MTTQVN đã ghi vào sổ tang bằng sự kính tiếc và lời tán thán Ni trưởng như sau: “Vô cùng thương tiếc Ni sư Huỳnh Liên, một vị chân tu giàu lòng yêu nước, đã bất chấp sự đàn áp dã man của địch, sẵn sàng chấp nhận mọi sự gian khổ, hy sinh kiên quyết xuống đường đấu tranh dũng cảm kiên cường, vì nền độc lập tự do của đất nước, và nêu cao tinh thần xả thân vì chánh nghĩa theo gương sáng của Đức Phật”.[24]

Ông Ung Ngọc Ky, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Thành phố cũng đánh giá rằng: “Trong suốt cuộc đời 2/3 thế kỷ đó, giữa lúc đất nước còn điêu linh, Ni sư đã là một chiến sĩ đấu tranh cho độc lập dân tộc. Giữa lúc mối đạo còn suy vi, Ni sư là bậc chân tu có công với đạo pháp. Ngoài ra, Ni sư còn là một nhà hoạt động xã hội, và khi nước nhà đã thống nhất, hòa bình độc lập hoàn toàn. Ni sư đã nhiệt tình đóng góp vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở thành phố và đóng góp vào nền hòa bình trong tổ chức phụ nữ và trong giáo hội Phật giáo Việt Nam, trong tổ chức Phật giáo Châu Á vì hòa bình, trong Ủy ban Bảo vệ Hòa bình của Thành phố”.[25]

Hình ảnh vị Bồ tát vốn là giới nữ lưu, nhưng tinh thần vững mạnh, sẵn sàng vượt khó, xông pha trong mọi cảnh huống để hòa nhập vào đời bằng tâm lượng vị tha, bằng trí lực thoát tục. Tất cả chỉ vì phục vụ cho nhân sinh, đất nước và quê hương, như bài Nguyện Chung đã thể hiện tâm tư hoài bảo của bậc Bồ tát hiện thân:

Con nguyện siêng năng bố thí công,

Bao nhiêu cực nhọc vẫn vui lòng.[26]

Qua phân tích và chứng minh như trên, người viết thiết nghĩ, ở đây chúng ta không cần phải bàn luận nhiều cũng đủ khẳng định được tinh thần kế thừa tích cực của Ni trưởng Huỳnh Liên. Trong trang sử Phật giáo Việt Nam, tinh thần xuất trần, bi nguyện phổ độ quần sanh, kết hợp với kiến thức uyên bác, văn chương lỗi lạc, các bậc cao tăng luôn sử dụng chất liệu thơ văn để đưa Phật giáo len lõi và thấm nhuần vào tâm thức của đông đảo quần chúng. Hay nói cách khác, các vị đã dùng văn thơ, một phương pháp gần gũi với quần chúng, nhưng lại rất linh hoạt, đặc sắc có thể giáo huấn cho họ biết tin vào khả năng của chính mình để xây dựng một đời sống an lạc, hạnh phúc.

Khi xưa, các nhà sư có lúc đã thị hiện tinh thần cứu nước bằng trí tuệ chỉ đạo, hoặc bằng văn chương sắc bén để tham gia quốc sự khi đất nước cần đến, hầu góp phần giúp các bậc lãnh đạo trong công cuộc dựng nước và giữ nước khi đất nước lâm nguy. Đời nay, Ni trưởng Huỳnh Liên nối truyền gương hạnh người xưa, Người rõ ràng đã thể hiện tích cực vận dụng những áng văn chương xuất sắc, những vần thơ trong sáng, nhẹ nhàng và cao đẹp để cứu giúp xã hội, điều phục đưa dẫn con người sống hướng thiện, an vui. Có thể nói thơ của Ni trưởng đã có những đóng góp nhất định, cụ thể là góp phần thành tựu trong việc truyền bá giáo lý cũng như bồi bổ thêm cho văn học Phật giáo nước nhà thêm phong phú, đa sắc màu. Do vậy, trong tập thơ Đóa Sen Thiêng của Ni trưởng đã được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam công nhận kỷ lục là tập thơ được viết theo nhiều thể loại nhất.

Ngoài ra, ngay từ thuở mới hành đạo, Ni trưởng đã biết vận dụng tài sản thiêng liêng vốn có từ truyền thống cha ông, đó là sử dụng văn hóa Việt, ngôn ngữ Việt để truyền đạo, răn người. Nói cách khác, với tài năng văn thơ kết hợp trí tuệ cùng sự hy sinh vì dân, vì nước, vì đạo pháp và dân tộc. Ni trưởng luôn tích cực phổ thơ, dịch sách thành văn ngôn thuần Việt. Cũng có thể nói, Ni trưởng đã không ngừng đóng góp cho hệ phái Phật giáo Khất sĩ nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung một di sản văn thơ thuần Việt. Người viết thiết nghĩ, phải chăng đây chính là thành tựu mà giới nghiên cứu cần quan tâm, nghiên cứu và thưởng thức cái đẹp trong nghệ thuật văn thơ Phật giáo. Thơ của Ni trưởng còn nhắc nhở cho kẻ hậu thế suy tư về cách sống, về hành động, tư tưởng. Nó không chỉ góp phần bảo vệ, xây dựng mà còn làm cho đất nước phát triển về nhân văn và văn hóa. Riêng đối với người tu sĩ, những hình ảnh này đã giúp cho kẻ hậu thế khơi dậy được tiềm năng và trách nhiệm đối với đạo và đời bằng tinh thần vô ngã vị tha, đúng với phương châm của đạo Phật “sống vì hạnh phúc, vì lợi ích cho số đông”, hoặc sống phù hợp, đúng với chủ trương của xã hội và nhà nước Việt Nam ngày nay, sống vì “đạo pháp - dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.

Mặt khác, việc Ni trưởng soạn kinh Việt hóa bằng thơ, không những tạo cho người đọc có cảm giác, đọc kinh như đang thưởng thức cái đẹp, bên cạnh đó còn giúp họ thâm nhập triết lý sống vui, sống tốt, sống lợi mình, lợi người. Quan trọng hơn nữa, trong truyền thống kinh tụng của Phật giáo Việt Nam xưa nay, phần lớn đều dùng Hán văn, hoặc Pali văn để xưng tụng kinh Phật. Trong khi đó Hệ phái Phật giáo Khất sĩ nói chung, Ni trưởng nói riêng, đã sớm ý thức tinh thần dân tộc mạnh mẽ nên đã sử dụng và đọc tụng kinh văn thuần Việt. Đây là điểm biểu hiện tiêu biểu nhất, đề cao tinh thần vận dụng ngôn ngữ văn tự Việt. Riêng về thơ, Ni trưởng đã dùng văn chương để biểu đạt ý đạo, răn đời. Đây là dạng thơ ngôn chí đạo lý của nhà Phật. Đến đây, người viết nghĩ rằng, định hướng góp phần phát triển cho nền văn học Phật giáo Việt Nam trong tương lai, không gì quan trọng hơn, bằng cách ngược dòng lịch sử, học gương hạnh xưa, vun bồi trí tuệ, lập hạnh cao đức, sống với tinh thần quên mình vì người, sẵn sàng cống hiến cho nhân loại. Đồng thời, cần phải biết kế thừa cái cũ, tiếp thu cái mới, học những điểm tinh hoa từ văn hóa ngoại lai, lấy đó làm nền tảng kiên cố để xây dựng cho nhân dân nước ta một tài sản tinh thần. Đây chính là từng bước góp phần phát triển và thành tựu vững chắc cho nền văn học Phật giáo Việt Nam.

Tài liệu tham khảo

1. Ni trưởng Thích Nữ Huỳnh Liên, Kỷ yếu HTKH. Nxb TP. HCM, 1994.

2. Ni trưởng Thích Nữ Khiêm Liên - Nhật Huy, Ni trưởng Huỳnh Liên: Cuộc đời và Đạo nghiệp, Nxb Hồng Đức, năm 2014.

3. Ni trưởng Huỳnh Liên, Đóa Sen Thiêng, Nxb Tổng hợp TP.HCM, 2012.

4. TT. Thích Phước Đạt, Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm, Nxb Hồng Đức, năm 2013.

5. HT. Thích Giác Toàn, Những sáng tác văn học của các Thiền sư thời Lý - Trần, Nxb Tổng Hợp TP.HCM, năm 2011.

6. Khái quát văn học Lý - Trần, www. ldthcsmm.sch.vn.

7. Nguyễn Công Lý, "Mấy đặc điểm văn học Lý - Trần", Tạp chí Hán Nôm, số 2 (47) - 2001. www.newvietart.com

8. Nguyễn Công Lý, Văn học Phật giáo thời Lý - Trần: Diện mạo và đặc điểm, Nxb ĐHQG TP. HCM, 2002.

9. Trịnh Thị Minh Hương, Vai trò của giáo lý Thiền tông trong sáng tác thơ Thiền Lý - Trần, www.clbhoanang30.vnweblogs.com.

10. Lê Sơn, Văn học Phật giáo đã viết nên chương mở đầu xuất sắc của nền văn học Việt Nam, www.tuvientuongvan.com.vn

11. Yếu tố Phật giáo trong văn học thời Lý - Trần, www.hoalinhthoai.com

 

NI SƯ VIÊN LIÊN

Tịnh xá Ngọc Vân, Bình Thuận

TƯỞNG NIỆM ÂN SƯ

Kính bạch Ni trưởng đương kim Trưởng Ni giới Hệ phái Khất sĩ Việt Nam.

Kính bạch Ni trưởng trụ trì Tổ đình Tịnh xá Ngọc Phương.

Kính bạch quý Ni trưởng, quý Ni sư.

Hôm nay nhân ngày lễ tưởng niệm lần thứ 30 Cố Ni trưởng Đệ Nhứt Thích Nữ Huỳnh Liên (1923-1987).

Để nhớ lại những ngày tháng dày công khổ hạnh, Người đã cống hiến đời mình cho đạo pháp và dân tộc, hoằng pháp lợi sinh trên các nẻo đường đất nước, đã đem lại biết bao hạnh phúc cho chúng sanh, đưa ngọn đuốc trí tuệ soi đường, chỉ lối cho những đứa con mãi mê trong dòng đời ngũ dục, phá màn vô minh trong cuộc đời đầy khổ ải trầm luân. Nói khác hơn, Người đã đem lại nguồn hạnh phúc an lạc giải thoát cho đàn hậu học của chúng con và chúng sanh. Chúng con có được ngày hôm nay là nhờ hấp thụ tinh hoa nền giáo lý Phật Đà của Tổ Thầy. Trong đó, Người đã dầy công hướng đạo giúp chúng con được trưởng thành trong ngôi nhà đạo pháp, chúng con đã và đang thực hiện lời giáo huấn của cố Ni trưởng Đệ Nhứt. Đoàn hậu học chúng con luôn luôn thể hiện vai trò đoàn kết gắn bó tích cực, kiên trì dựng xây hoàn thiện ngôi nhà đạo pháp và dân tộc ngày đêm vững bền. Đoàn hậu học chúng con xin nguyện góp phần gìn giữ gia tài pháp bảo của Ni trưởng Đệ nhất truyền trao cho chúng con.

Giữ gìn tổ ấm tông phong,

Tốt đời, đẹp đạo giữ lòng thế nhân.

Kính bạch cố Ni trưởng, 30 cuốn lịch đã từ từ lui vào dĩ vãng, nhưng 30 năm dài quý Ni trưởng, Ni sư và các con mãi mãi khắc ghi những lời vàng ngọc của cố Ni trưởng Đệ nhất đã giáo huấn.

Hư không còn có ngày mòn,

Tấm gương đức hạnh sắc son đời đời.

Thầy sống mãi trong lòng pháp lữ,

Trong tư duy, trong tâm trí chúng con.

Dưới đài sen con ngưỡng nguyện trông

Thành kính nguyện Ta Bà thầy trở lại.

 


[1] Trung Bộ kinh 1, HT. Minh Châu dịch, tr.83, xuất bản, 1992.

[2] Trích dẫn từ bài viết Đọc thơ của Ni trưởng Thích Nữ Huỳnh Liên, trong Đóa Sen Thiêng, Nxb Tổng hợp TP. HCM, 2012, tr.26.

[3] Như trên, tr.22.

[4] Như trên, tr.31.

[5] Trích từ Đóa Sen Thiêng của Ni trưởng Huỳnh Liên, Nxb Tổng hợp TP. HCM, 2012, tr.494.

[6] Như trên, tr.193.

[7] Trích từ Đóa Sen Thiêng, Ni trưởng Huỳnh Liên, Nxb Tổng hợp TP. HCM, 2012, tr. 544.

[8] Như trên, tr. 227

[9] Trích từ Đóa Sen Thiêng, Ni trưởng Huỳnh Liên sáng tác, nhà xuất bản Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh, năm 2012, tr. 198.

[10] Trích từ Đóa Sen Thiêng, Ni trưởng Huỳnh Liên sáng tác, nhà xuất bản Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh, năm 2012, tr. 231.

[11] Trích từ Đóa Sen Thiêng, Ni trưởng Huỳnh Liên sáng tác, nhà xuất bản Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh, năm 2012, tr. 239.

[12] Như trên, tr. 460.

[13] Trích Đóa Sen Thiêng, Ni trưởng Huỳnh Liên, Nxb Tổng hợp TP.HCM, 2012, tr. 461.

[14] Như trên, tr. 503.

[15] Như trên, tr. 567.

[16] Trích từ Đóa Sen Thiêng, Ni trưởng Huỳnh Liên, Nxb Tổng hợp TP. HCM, 2012, tr.186.

[17] Trích từ Đóa Sen Thiêng, Ni trưởng Huỳnh Liên sáng tác, nhà xuất bản Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh, năm 2012, tr.129.

[18] Trích từ Ni trưởng Huỳnh Liên: Cuộc đời và Đạo nghiệp, Ni trưởng Khiêm Liên – Nhật Huy trước tác, Nxb Hồng Đức, 2014, tr.137.

[19] Như trên, tr. 208.

[20] Như trên, tr.7.

[21] Trích Kỷ yếu Ni trưởng Thích Nữ Huỳnh Liên, Nxb TP.HCM, 1994, tr. 231.

[22] Như trên, tr. 121.

[23] Như trên, tr.19.

[24] Trích Kỷ yếu Ni trưởng Thích Nữ Huỳnh Liên, Nxb TP. HCM, 1994, tr.34.

[25] Như trên, tr. 123.

[26] Như trên, tr.129.