Luật Khất sĩ

LUẬT KHẤT SĨ

BÁT ĐẤT

Bát phải bằng đất, hông tròn sáu tấc, miệng rộng, đốt đen, lăn sáp bên ngoài. Một cái nắp đậy bát bằng nhôm trắng nhẹ. Lại phải có một cái túi vải tròn vừa với bát, túi có nắp phủ, có quai một tấc bề ngang, còn bề dài khi mang choàng vào vai trái thì miệng túi bát phải ngang dây lưng chăn. Túi nhuộm một màu với y (màu vàng sậm).

Y VÁ

a) Y thượng bá nạp, phải bằng vải cũ hoặc vải vụn đâu lại. Không được may vải vụn đủ bông, đủ màu rằn rực sặc sỡ; phải may bằng vải trắng, vải vàng, hoặc những thứ lợt màu, để có thể sau khi may rồi, nhuộm cho tiệp màu vàng sậm (cấm dùng vải, chỉ bằng tơ, lụa, hàng nỉ, nhiễu, len, tố cẩm tự… đồ vật của sanh mạng; cấm dùng màu đen, trắng, xanh, tím, đỏ, vàng, màu tươi tốt).

Y thượng bề dài 2m70, bề ngang 1m80, mặc vấn. Nếu y của Sa di vải nguyên, bằng y của Tỳ kheo thì bá nạp, thêu bìa dọc dài 0m10, bìa ngang 0m15 (là 3m x 2m). Khi ra đường, vào nhà xóm mặc y vấn tràng.

b) Y hạ vải nguyên, bề dài 2m, bề ngang 1m, may dính lại, thành ra vuông vức 1m2. Bìa trên 0m10, bìa dưới 0m05, nhuộm màu vàng sậm theo y thượng (Tăng mặc xếp, Ni mặc dún rút; Tăng mặc nửa ống chơn, Ni mặc ngang mắt cá cổ chơn).

c) Y trung vải nguyên, bề dài 2m, bề ngang 0m70, không may bìa. Kết mỗi nên hông một nút quai thắt. Nhuộm màu vàng sậm theo y thượng và y hạ, mỗi khi giặt phải giặt một lượt 3 cái, không cho bay màu khác nhau (có thể y trung này màu sậm, hoặc lợt hơn y thượng và y hạ một chút ít cũng được). Nhuộm bằng thuốc màu, hoặc vỏ trái măng cụt sống, vải giặt sạch hồ, nhúng phơi 4 nước chớ đừng ngâm (khi mặc vào chừa cánh tay mặt).

Y trung của Ni lưu bề dài 1m, bề ngang (kích) 0m70, tay 0m85, ống tay 0m20, đinh, lai, bâu 0m20, nút quai thắt, phải có may xương sống và vai vuông.

Y thượng: phải mặc một cái một, mỗi năm đổi một lần vào ngày Rằm tháng Bảy. Hoặc ai muốn chỉ giữ một cái cũ, mặc vá trọn đời cũng được.

Y hạ: có thể cho một cái mới, mỗi năm đổi một lần vào ngày Rằm tháng Bảy, và giữ thêm được một cái cũ để thay đổi. Mỗi khi đi ra đường phải mặc cái cũ ở trong, cái mới ở ngoài đặng cho tiệp màu với y thượng. Trong lúc đêm hôm, mặc ngủ, cùng khi làm việc dính dơ, nên mặc dùng cái cũ. Hoặc như ai muốn mặc một cái thì càng tốt, chớ cấm tuyệt đối không cho có đến ba cái hạ y, hoặc hai cái mới hết.

Y trung: Mỗi năm đổi một cái mới vào ngày Rằm tháng Bảy, và còn giữ được một cái cũ. Cấm ba cái, hoặc hai cái mới hết. Phải mặc cái cũ phía trong, cái mới phí ngoài cho tiệp màu y thượng và y hạ. Hoặc chỉ mặc thường một cái cũ cho hư trước, cái mới ít mặc đặng lâu hư. Ai mặc được một cái càng tốt (Ni lưu có được hai bộ y hộ thân riêng và một cái túi nhỏ, bề dài 0m30, bề ngang 0m25).

Khăn lau: Bề dài 0m60, bề ngang 0m30, vải nguyên, màu vàng sậm. Khăn, túi và tam y phải một màu vàng sậm.

Choàng tắm: Bề dài 2m, bề ngang 0m85, nếu dùng choàng tắm thì không dùng y trung, y hạ cũ.

Với một cái muỗng nhôm, một bàn chải chà răng cán bằng bột hoặc bằng cây, bằng cao su (chớ không được bằng sừng, xương, ngà, đồi mồi) và một con dao cạo tóc, một ống đựng kim chỉ, vải vá, một bộ đồ lược nước uống, một cái lon uống nước bằng nhôm là đủ bộ phận của nhà sư (đồ này với giấy đạo thảy để hai bên trong túi bát).

Bậc Sa di hoặc Thinh Văn hay có sắm thêm một cái túi nhỏ để kinh sách và bài học. Nhằm khi đi du hành xa, nơi xứ muỗi nhiều, các sư ấy cũng đem theo mùng, nên túi riêng này: bề dài 0m40, bề ngang 0m10, bề cao 0m30, nắp phủ 0m20. Mùng túi này ai không có cũng được (Ni lưu có một túi nhỏ riêng để kinh sách).

Mùng của nhà sư: Bề dài 2m, bề ngang 0m70, bề cao 1m.

Mặt giường nằm của nhà sư: cũng y như nóc mùng, bề dài 2m, bề ngang 0m70, bề cao 0m40.

Ghế nhà sư ngồi: Cũng không cao quá 0m40, khi ngồi thòng chơn, gót vừa đụng đất.

Cốc nhà sư ở: Bề dài 3m, bề ngang 2m, cột 2m50 cất khiêng, lót sàn 0m30. Chỗ ở phải xa nhà bá tánh ít nhất là một trăm thước. Phải ở vườn rừng, không được ở núi, chợ xóm.

Nhà sư phải đầu trần, chân không, mặc y chừa cánh tay mặt. Trừ khi bệnh yếu, được dùng guốc cây, dép mo, che dù vải vàng, đội mũ vải, hoặc khăn vải vàng, mặc y thượng trùm kín, hoặc y trung che kín hay phủ ngược (không được ở trần). Mền, ngọa cụ, tọa cụ, gậy, đồ vật dùng trong khi dưỡng bịnh uống thuốc, khi mạnh rồi phải bỏ hết, giữ giới luật thanh bần đơn giản lại như cũ, như hồi chưa đau. Chẳng đặng mặc, mang đồ vật theo cách người bịnh mà vào tịnh xá lễ Phật, nghe pháp, hầu thầy, lại gần pháp tháp, nhóm họp, đọc giới, sám hối, đi đường.

Không mưa, không bịnh, thì chẳng đặng ăn ngủ trong cốc. Chớ ngủ hai đêm một gốc cây. Chớ ăn hai lần một chỗ ngồi.

Người bịnh nếu có hai hộ cho đồ ăn buổi sáng thì được ăn. Nếu bịnh nặng, không độ được buổi cơm trưa, thì được độ buổi cơm chiều, khi có ai dâng cho. Người bịnh tốt hơn là để tâm mình thanh tịnh, những kẻ khác phải lo nuôi sóc người ấy.

Vị sư điều dưỡng có thể khỏi đi xin và được ăn dùng buổi sáng khi có đồ ăn dư nhiều. Còn tất cả các sư đều phải ăn độ một bữa ngọ trưa. Đi xin, đồ chay, hoa trái, rau cỏ mà thôi.

Giáo hội Tăng thì đi du hành khắp xứ, nghỉ tạm nơi các vườn, rừng, tịnh xá, nhà mát, cốc lều làm che tạm. Không nhận tiền, bạc, vàng. Không nấu nướng, tích trữ vật thực.

Mỗi vị sư bịnh, khi thiệt mạnh rồi, không tích trữ để dành thuốc.

Trong xã hội cư gia có đủ hội phước thiện đệ hộ pháp cho chư Tăng và giúp đỡ bá tánh, kẻ cô độc về tứ sự: sự ăn, sự mặc, chỗ ở, khi bịnh, nếu là một xứ có đạo; và như vậy, trong mười người có một người xuất gia Khất sĩ, ba người tại gia cư sĩ, ba người thiện, ba người ác. Thành ra một trường học có ba lớp cho người ác bước lên. Mỗi lớp có đủ chi nhánh giáo phái, càng nhiều càng hay, chúng sanh tất cả đều có học, biết rõ mục đích chung là tiến đến sự sáng suốt, hiền lương và khỏi khổ. Muốn hết khổ phải dứt bỏ tham, sân, si thì ý mới định. Ý định là Niết bàn. Muốn vậy phải xuất gia Khất sĩ, giải thoát khỏi tứ sự: ăn, mặc, ở, bịnh. Sống như ông già không giống tuổi trẻ. Ta xin vật chất để nuôi thân, người xin tinh thần để nuôi tâm. Cõi đời mà chúng sanh biết xin lẫn nhau để sống cả thân tâm là xứ Cực lạc.

Hơn là để nhồi sọ lẫn nhau bằng các cái xin của bóc lột, cái xin dàn áp xảo trá, không phải tự người vui lòng cho, không phải thiện. Nếu không đi xin thì không bao giờ hết tham, sân, si tội lỗi

TỨ Y PHÁP

1- Nhà sư khất thực: Phải lượm những vải bỏ đâu lại thành áo, nhưng có ai cúng vải, đồ cũ thì được nhận.

2- Nhà sư khất thực: Chỉ ăn đồ xin mà thôi, nhưng ngày hội, thuyết pháp, đọc giới bổn, được ăn tại chùa.

3- Nhà sư khất thực: Phải nghỉ dưới cội cây, nhưng có ai cúng lều, am nhỏ, bằng lá một cửa thì được ở.

4- Nhà sư khất thực: Chỉ dùng phân uế của bò mà làm thuốc trong khi đau, nhưng có ai cúng thuốc, dầu, đường thì được dùng.

Không tự lấy để trừ tham.

Không tự làm để tránh ác.

Uống hỏi xin nước, nằm hỏi xin đất. Ăn hỏi xin lá, trái; ở hỏi xin cốc, hang. Không ngắt lá cây, không bẻ trái, phải lượm xin. Ăn quả chừa hột, đừng bứng gốc (không xin thái quá), không dùng đồ vật để sanh mạng của thú, người. Dứt tham ác thì sân si vọng động chẳng phát sanh.

MƯỜI GIỚI TẬP SỰ SA DI

1- Cấm sát sanh

2- Cấm trộm cắp

3- Cấm dâm dục

4- Cấm nói dối khoe khoang, đâm thọc, rủa chửi.

5- Cấm uống rượu, tham lam, sân giận, si mê.

6- Cấm trang điểm phấn son, dầu hoa, áo quần hàng lục tươi tốt.

7- Cấm nghe, xem hát, múa, đờn, kèn, yến tiệc vui đông.

8- Cấm ngồi ghế cao, nằm giường rộng chiếu lớn xinh đẹp.

9- Cấm ăn sái giờ từ quá ngọ đến ngọ mai (phải ăn chay).

10- Cấm rờ đến tiền, bạc vàng, của quý, đồ trang sức.

Sống theo lẽ một, ở một mình, ăn một bữa, mặc một bộ áo, ngày học một lần, làm một việc, nói một lời, đi một đường, một cái bát, ngồi nằm một chỗ một người (ngày lạy một lần…).

Ngoài Tứ y pháp và mười giới (hoặc 250 giới luật nghi), không còn có đạo Niết bàn nào thứ hai nữa cả.

CÕI NIẾT BÀN

Giới bổn luật nghi (Tỳ kheo 250 giới)

A. BẢY LỚP LAN CAN BÁU (Thất tụ giới)

1-Bốn đại giới (trục xuất)

4

2-Mười ba giới tổn hại tăng tàn (giáng cấp)

13

3-Hai giới không định

2

4-Ba chục giới phá sự thanh bần (cấm phòng sáu bữa)

30

5-Chín chục giới hành phạt (quỳ hương )

90

6-Bốn giới đặc biệt (xưng tội xả đọa)

4

7-Một trăm giới nhỏ phải học (sám hối)

100

                                                  Cộng:  

243 giới

 

B. BẢY LỚP LƯỚI BÁU (Thất định pháp)

8- Bảy pháp diệt tránh (giới giải hòa)

7

                                                     Cộng:                                                    

250 giới

 

C. BẢY HÀNG CÂY BÁU: Thất giác ý (Thất Bồ đề)

1- Phân biệt sự lành với sự dữ

2- Tinh tấn mà lướt lên

3- An lạc trong vòng đạo đức

4- Thắng phục tâm ý mình đặng làm lành

5- Nhớ tưởng đạo lý

6- Nhứt tâm đại định

7- Vui chịu với mọi cảnh ngộ

(Muốn biết rõ hơn, hãy xem giới bổn).

NIẾT BÀN THỜI KHẮC BIỂU

TRÚ DẠ LỤC THỜI

1- 5 giờ tới 6 giờ sáng: Thiền định

2- 8 giờ tới 9 giờ sáng: Khất thực

3- 11 giờ tới 12 giờ trưa: Thực thời

4- 3 giờ tới 4 giờ chiều: Thuyết pháp

5- 6 giờ tới 7 giờ chiều: Thiền định

6- 12 giờ đến 1 giờ khuya: Thiền định.