Nghi thức Cầu an

 

     a-kinhtung

I.     Nghi thức Cúng dường Tam Bảo
 II.    Nghi thức cúng Cửu Huyền
 III.   Nghi thức Thọ trì
 IV.   Nghi thức Sám hối
 V.    Nghi thức Cầu an
 VI.   Nghi thức Cầu siêu
 VII.  Kinh Vu Lan Bồn
 VIII. Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu Trọng Ân
 IX.   Kinh A Di Đà
 X.    Kinh Từ Bi
 XI.   Kinh Vô Ngã Tướng
 XII.  Kệ Tụng thêm
 * Ý nghĩa và Lời khuyên trước khi Tụng kinh

V. NGHI THỨC CẦU AN

(TRONG KHI TAI NẠN, RỦI RO, ĐAU ỐM)

 1. DÂNG HƯƠNG

Giới hương, Định hương, dữ Huệ hương

Giải thoát, Giải thoát tri kiến hương

Quang minh vân đài biến pháp giới

Cúng dường Tam Bảo khắp mười phương. O

 

2. LỄ PHẬT

Kính lạy Phật từ bi cứu thế

Đem đạo lành phổ tế chúng sanh

Trần gian biết nẻo tu hành

Nhờ đèn trí huệ quang minh soi đường. O

 

3. LỄ PHÁP

Kính lạy Pháp là phương giải thoát

Gốc chơn truyền Y Bát từ xưa

Pháp tu chứng đắc kịp giờ

Độ người qua đến bến bờ bên kia. O

 

4. LỄ TĂNG

Kính lạy Tăng nghiêm trì giới luật

Hạnh Tăng vô nhất vật thanh bần

Tự mình giác ngộ lý chân

Giúp người giác ngộ chuyên cần công tu. O

 

5. KỈNH NGUYỆN

Nam-mô Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. O

Bạch đức Thế Tôn !

Các con xin trì tụng phẩm kinh này,

Để cầu an cho… (Ông, bà… họ… tên… pháp danh… tuổi…)

Và tất cả chúng sanh trong mười phương

Kẻ âm được siêu, người dương thanh thới

Cùng nghiệp qua, nạn khỏi, tật bệnh tai ách tiêu trừ

Thiện căn tăng trưởng, phước huệ trang nghiêm

Sở nguyện tùy tâm, thành Vô thượng đạo

Xin ơn trên chư Phật chứng minh. O

 

6. KHAI KINH KỆ

Vòi vọi không trên pháp thẳm sâu

Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu

Con nay nghe đặng chuyên trì niệm

Nguyện giải Như Lai nghĩa nhiệm mầu. O

 

7. KINH CẦU AN

Các con thành kính nguyện lên

Cầu xin Tam Bảo ân trên chứng lòng

Từ bi nhỏ xuống phước hồng

Độ người tai nạn thoát vòng nghiệp vương,

Cùng người tật bệnh đau thương

Thảy đều hưởng thụ miên trường vĩnh an,

Những người chịu lắm tội oan

Lần tiêu túc trái bình an trở về,

Với người nghiệp chướng đê mê

Loạn tâm vọng tưởng tư bề đảo điên

Chóng tiêu dứt mối oan khiên

An tâm, định tánh mạnh liền như xưa,

Những người bệnh hoạn dây dưa

Nhờ ân Phật lực sớm trưa mạnh lành,

Khắp trong tất cả chúng sanh

Năm châu, bốn biển đắc thành bình an,

Người người tháo cổi dây oan

Tương thân, tương ái, kết đoàn giao liên

Sùng tu ngưỡng mộ Phật Tiên

Hướng về Tam Bảo huệ liền mở khai

Minh tâm kiến tánh Như Lai

Thoát vòng đau khổ ra ngoài trái oan,

Cầu xin Tam Bảo phước ban

Chứng lòng đệ tử cầu an đắc thành.

Nam-mô Cầu An Lạc Địa Bồ-tát. O (3 lần)

 

8. KINH CẦU NGUYỆN

Cầu Tam Bảo ơn trên tế độ

Cứu nhơn sanh tiêu khổ, diệt tai

Rộng truyền Chánh pháp Như Lai

Tỉnh người mê mộng đọa đày trần gian,

Đặng ra khỏi sáu đàng khổ bức

Liền bước lên chín bậc Liên đài,

Hộ người đạo đức tâm khai

Cúng dường, bố thí kết rày thiện duyên,

Nhờ đức Phật thiêng liêng huệ cố

Độ Cửu huyền Thất tổ siêu thăng,

Đương sanh lộc vị cao sang

Tai qua, nạn khỏi, phước tăng thọ trường,

Gia quyến đặng an khương vĩnh hạnh

Trồng cội lành đạo Thánh cần chuyên,

Thảy nương Bát-nhã từ thuyền

Giác đăng bỉ ngạn về miền Tây phương. O

 

9. KINH PHỔ NGUYỆN

Nay đệ tử lòng thành phát nguyện

Nhờ ơn trên Phật hiển oai linh

Độ cho tất cả chúng sanh

Năm châu, bốn biển thái bình an vui

Người người được thấm mùi đạo lý

Giữ gìn thân, tâm, trí trọn lành

Ăn chay, niệm Phật tu hành

Cải tà quy chánh, hiểu rành lý chơn

Một lòng gắng keo sơn trau sửa

Dứt sân si, tánh lửa, lòng phàm

Xa lìa tội ác gian tham

Kết duyên Tam Bảo quyết làm nghĩa nhân.

Nhờ lượng cả hồng ân Tam Bảo

Chứng lòng thành hiếu đạo các con

Cầu xin cha mẹ sống còn

Tăng long tuổi thọ hưởng tròn phước duyên,

Và cầu nguyện Cửu huyền Thất tổ

Sớm vãng sanh Tịnh độ Tây phương

Hưởng an cõi thọ miên trường

Thoát vòng sanh tử trần vương khổ sầu.

Con thành kính đê đầu lễ bái

Phật từ bi, bác ái độ tha

Âm siêu, dương thới chóng qua

Cầu xin Tam Bảo chứng mà lòng con. O

 

10. KINH CẦU PHƯỚC, CẦU LỘC

Cầu Tam Bảo ban ân nhỏ phước

Cho các con hưởng được duyên lành

Làm ra mọi sự đắc thành

Gặp nhiều may mắn sẵn dành ban cho,

Con cháu biết giữ lo gia nghiệp

Lo làm ăn bặt thiệp với đời

Một lòng hiếu thảo không dời

Cũng nhờ phước lộc Phật Trời rưới ban,

Trong bửu quyến bình an vạn sự

Biết nghiêm trì gìn giữ giới răn

Nương về theo Phật, Pháp, Tăng

Là phương diệu dược diệt ngăn lòng tà,

Cả lớn nhỏ trên hòa dưới thuận

Vâng theo lời giáo huấn mẹ cha

Kính tôn hiếu thảo ông bà

Giữ tròn bổn phận tại gia tu hành,

Bền tâm trí làm lành lánh dữ

Nguyện ơn trên Phật ngự chứng minh

Cầu cho tất cả chúng sanh

Năm châu, bốn biển thái bình yên vui

Người người được thấm mùi vị đạo

Gằng tu hành tích tạo phước duyên,

Cầu trên Phật Tổ chứng miên

Ban ân nhỏ phước xuống liền các con.

Lời cầu khẩn mãi còn ghi nhớ

Nhờ chư thiên gia trợ hộ trì

Đồng tâm phát nguyện hôm ni

Mong trên Tam Bảo chứng tri lòng thành. O

 

11. KINH CẦU THỌ

Kính lạy Phật, Pháp, Tăng tam bảo

Chứng lòng thành hiếu thảo các con

Cầu xin nội ngoại sống còn

Bá niên tuổi thọ vẹn tròn phước duyên,

Cùng cha mẹ hiện tiền sức khỏe

Đặng bình an vui vẻ muôn phần

Đường chơn nẻo đạo bước gần

Trau dồi hạnh đức chuyên cần tu tâm,

Cầu tất cả tình thâm quyến thuộc

Nội ngoại đồng hưởng được bình yên,

Bà con lối xóm láng giềng

Tai qua nạn khỏi hiện tiền sống chung

Thêm phước đức tăng sùng đạo hạnh

Vẫn bình an khỏe mạnh trọn đời

Thân tâm nhàn lạc thảnh thơi

Thoát ngoài sự thế đầy vơi tội tình…

Cầu Phật lực quang minh phóng chiếu

Độ chúng sanh thấu hiểu lý chân

Nương theo chánh đạo tu lần

Hầu mong thoát khỏi những phần tử sanh.

Nay đệ tử lòng thành khấn nguyện

Nhờ ơn trên Phật hiển oai linh

Độ cho tất cả chúng sanh

Nương về chánh đạo sửa mình tu tâm. O

 

12. KỆ THÁI BÌNH

Gieo mình trước tòa liên đài

Chí thành đảo cáo bi ai nguyện cầu

Lòng vì khắp hết năm châu

Thay cho thiên hạ hoàn cầu nhân dân

Nguyện mười phương Phật ai lân

Chín tầng tạo hóa Thánh Thần oai linh

Đoái thương ngũ trược chúng sanh

Cõi trần kiếp sát đao binh tai nàn,

Cùng người ngỗ nghịch, bạo tàn

Trái ngang phép nhiệm gây đàng chiến tranh

Mưu sâu, chước độc sẵn dành

Phá tan bờ cõi cuộc thành thiên công

Giết người máu chảy thành sông

Thây phơi trắng biển, xương chồng khắp nơi

Uế oan hơi mịt đất trời

Thác đà tàn tệ, sống thời chẳng an

Đến đâu cửa nát nhà tan

Đất bằng thành thị, gò hoang lâu đài

Lẫy lừng đấu trí, đua tài

Của đời chẳng tiếc, đồng loài chẳng thương

Làm cho thiên hạ nhiễu nhương

Đón ngăn bốn biển tuyệt đường sanh nhai

Dân lành giết hại hoài hoài

Thây che mặt biển, nước phai màu hồng

Xiết bao tai nạn chập chồng

Dưới sông đã hại, trên đồng cũng âu

Họa gieo khắp hết hoàn cầu

Tiếng than như sấm, hơi sầu như mây

Oan thay cho đến cỏ cây

Thảy đều thọ hại chầy ngày thảm thương…

Thấy đời tai nạn phi thường

Phút liền động niệm cảm thương cho đời,

Lòng thành chúc tụng hôm nay

Phần hương đảo cáo nguyện mười điều ra:

MỘT là nguyện đức DI-ĐÀ    O

Cầu cho bá tánh trẻ, già khắp nơi

Tâm lành sáng suốt kịp thời

Nhà nhà lạc nghiệp, nơi nơi thái hòa.

HAI là nguyện đức THÍCH-CA    O

Trở đời ly loạn hóa ra thái bình

Mở mang vận thái văn minh

Vật, người thơ thới, dân tình trung lương.

BA là nguyện CHUẨN ĐỀ VƯƠNG    O

Thần thông dẹp hết bốn phương chiến trường

Độ người ngỗ nghịch bạo cường

Bỏ tà về chánh một đường thiện tâm.

BỐN là nguyện đức QUÁN ÂM    O

Độ người oán trọng thù thâm thuận hòa

Độ người tai nạn xảy qua

Cùng người tật bệnh đều là an thuyên.

NĂM là nguyện đức PHỔ HIỀN    O

Độ người chơn chánh giữ quyền an dân

Bốn phương tương ái tương thân

Đồng tuân phép nước thảo thân kính nhường.

SÁU là nguyện ĐỊA TẠNG VƯƠNG    O

Độ người xiêu lạc bốn phương đặng về

Cùng là người thác tư bề

Hồn linh độ hết đồng về Tây phương.

BẢY là nguyện TỨ THIÊN VƯƠNG    O

Thái bình đem lại như Đường, Nghiêu xưa

Bốn mùa thuận tiết gió mưa

Nhơn phong vật thụ, trẻ già hân hoan.

TÁM là nguyện với TAM QUAN    O

Khiến người đạo tặc hung hoang về lành

Bốn phương hải yến, hà thanh

Nhà sanh con thảo, nước sanh tôi hiền.

CHÍN là nguyện đức HOÀNG THIÊN    O

Hộ cho thế giới dứt liền đao binh

Á, Âu như đệ như huynh

Tương thân tương ái, hòa bình giao liên.

MƯỜI là nguyện các THÁNH HIỀN    O

Cầm cân tội phước phân minh chỉ đàng

Tiêu trừ tất cả tai nàn

Dứt cơn khói lửa, hộ an dân lành.

Mười điều phát nguyện viên thành

Cầu cho bá tánh tu hành thiện duyên,

Tâm thành đảo cáo chư Thiên

Cầu xin giáng phước xuống miền Việt Nam

Tiêu trừ tất cả tánh phàm

Quan dân mau bỏ xan tham, cải tà

Bốn mùa mưa thuận gió hòa

Dân an quốc thới, trẻ già khương ninh. O

 

13. DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH – PHẨM PHỔ MÔN

( DIỄN KỆ )

 

Có Bồ-tát là Vô Tận Ý

Từ chỗ ngồi đứng dậy khoan thai

Kính thành trịch áo bày vai

Hướng về đức Phật chắp tay bạch rằng:

“ Bạch đức Phật! Quán Âm Bồ-tát

Nhơn duyên gì tên đặt Quán Âm?”

Phật rằng: “Này gã thiện nam

Nếu như muôn ức, trăm ngàn chúng sanh

Bị khổ não điêu linh tai ách

Nghe Quán Âm Bồ-tát oai linh

Một lòng khẩn thiết xưng danh

Thời Bồ-tát quán âm thanh cứu nàn.

Hoặc có kẻ thân lâm hỏa nạn

Niệm Quán Âm lửa chẳng đốt thiêu,

Oai thần Bồ-tát cao siêu

Chúng sanh xưng niệm thoát điều nguy nan.

Hoặc có kẻ thân lâm thủy nạn

Niệm Quán Âm chỗ cạn gặp liền,

Oai thần Bồ-tát diệu huyền

Chúng sanh xưng niệm thoát miền nguy nan.

Hoặc sanh chúng trăm ngàn muôn ức

Cầu bạc, vàng, bảo vật, trân châu

Xa cừ, mã não, san hô

Lưu ly, hổ phách, lộ đồ gian nguy

Vào biển cả gặp khi gió bạt

Thuyền tấp bờ La-sát nguy nan

Một người xưng niệm Quán Âm

Mọi người nương cậy oai thần cứu an.

Hoặc có kẻ thân tâm đao nạn

Niệm Quán Âm gãy đoạn gươm đao,

Oai thần Bồ-tát nhiệm mầu

Chúng sanh xưng niệm nạn nào cũng qua.

Hoặc có quỷ Dạ-xoa, La-sát

Khắp tam thiên toan bắt chúng nhân,

Nghe xưng danh hiệu Quán Thế Âm

Mắt không dám ngó, huống tầm hại ai.

Hoặc kẻ tội, hoặc người vô tội

Bị gông cùm ràng trói tấm thân

Xưng danh Bồ-tát Quán Âm

Gông cùm rời rã, tấm thân nhẹ nhàng.

Hoặc thương khách trên đàng hiểm trở

Dắt gia nhân chuyên chở báu trân

Đầy đàng oán tặc, ác nhân

Một người trong bọn bình tâm xướng rằng:

“Các nam tử xin đừng hốt hoảng

Phải một lòng niệm tưởng Quán Âm

Ngài ban vô úy diệu thâm

Chúng ta xưng niệm nhất tâm thoát nàn.”

“Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát!” O

Các thương nhân được đồng phát tiếng xưng

Nhờ xưng danh hiệu ân cần

Đoàn thương nhân được thoát phần nguy nan.

Vô Tận Ý! Quán Âm Bồ-tát O

Sức oai thành to tát dường kia,

Nếu người dâm dục nhiều bề

Niệm danh Bồ-tát dứt lìa dâm tâm.

Nếu có kẻ nhiều sân, lắm hận

Niệm Quán Âm hận tận, sân lìa.

Nếu người si chướng nhiều bề

Niệm danh Bồ-tát dứt lìa si tâm.

Vô Tận Ý! Quán Âm Bồ-tát O

Sức oai thành to tát dường kia,

Năng làm lợi ích nhiều bề

Chúng sanh tâm niệm chớ hề lãng xao.

Nếu phụ nữ muốn cầu con cái

Năng cúng dường lễ bái Quán Âm

Cầu nam thì đặng sanh nam

Cầu nữ sanh nữ chí tâm đắc thành,

Cầu nam được trai lành đức trí

Cầu nữ sanh gái quý đẹp xinh

Trước trồng cội đức nhơn lành

Ai ai nhìn thấy kính thành ái thâm.

Vô Tận Ý! Quán Âm Bồ-tát O

Sức oai thần to tát dường kia,

Cúng dường lễ bái chi chi

Chẳng bao mấy phước, nên trì niệm danh.

Ví ai tưởng muôn nghìn Bồ-tát

Niệm nhiều tên như cát sông Hằng

Sáu mươi hai ức gia tăng

Sắm sanh tứ sự cúng dâng trọn đời,

Vô Tận Ý, vậy ngươi suy nghĩ

Công đức người dường ấy nhiều chăng?

Ngài Vô Tận Ý thưa rằng:

“Thế Tôn! Phước ấy vô ngần xiết chi.”

Phật lại nói: “Bằng khi có kẻ

Niệm Quán Âm cho chí một thời,

Cúng dường lễ bái đức Ngài

Phước so người ấy kẻ này như nhau.

Ngàn muôn ức kiếp sau chẳng dứt

Niệm Quán Âm phước đức vô ngần…”

Ngài Vô Tận Ý  bạch rằng:

“Thế Tôn! Bồ-tát Quán Âm sao là

Dạo khắp cõi Ta-bà thế giới

Vì chúng sanh giảng nói pháp lành

Sức mầu phương tiện độ sanh

Đâu là duyên cớ, cúi xin giải bày?”

Phật mới bảo: “Hỡi này nam tử,

Có chúng sanh quốc độ xa gần

Muốn cầu thân Phật độ dân

Quán Âm liền hiện Phật thân hộ trì,

Cõi muốn được Bích-chi hóa độ

Hiện Bích-chi vì đó giảng kinh,

Muốn Thinh văn đến độ sanh

Hiện Thinh văn đến pháp lành tuyên dương,

Cõi muốn được Phạm vương hóa độ

Hiện Phạm vương vì đó giảng kinh,

Muốn cầu Đế Thích độ sanh

Hiện thân Đế Thích pháp lành giảng phân,

Muốn Tự Tại Thiên thân hóa độ

Hiện thân này vì đó giảng kinh,

Muốn Đại Tự Tại thân hình

Hiện Đại Tự Tại thuyết minh độ trần,

Muốn Thiên Đại tướng Quân hóa độ

Hiện Tướng Quân vì đó giảng kinh,

Muốn Tỳ-Sa đến độ sanh

Hiện Tỳ-Sa đến pháp lành giảng phân,

Muốn Tiểu Vương dùng thân hóa độ

Hiện thân này vì đó giảng kinh,

Muốn cầu Trưởng giả độ sanh

Hiện thân Trưởng giả thuyết trình lý chân,

Muốn Cư sĩ dùng thân hóa độ

Hiện thân này vì đó giảng phân,

Cõi nào muốn bậc Tể quan

Hiện Tể quan đến luận bàn cao xa,

Cõi muốn được Bà-la-môn độ

Hiện thân này vì đó giảng kinh,

Muốn cầu Tứ chúng độ sanh

Hiện thân Tứ chúng thuyết minh luận bàn,

Muốn Phụ nữ của hàng Trưởng giả

Bà-la-môn, Cư sĩ, Tể quan

Tức thì hiện Phụ nữ thân

Tùy cơ nói pháp độ dân muôn ngàn,

Cõi muốn được Đồng nam hóa độ

Hiện Đồng nam vì đó giảng kinh,

Muốn cầu Đồng nữ độ sanh

Hiện thân Đồng nữ pháp lành giảng ra,

Muốn Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát

Ca-lầu-la cùng các Tu-la

Khẩn-na-la, Ma-hầu-la

Muốn cầu tất cả Nhân và Phi nhân

Hiện thân đó ân cần nói pháp

Phương tiện này độ khắp thế gian,

Muốn cầu thần Chấp Kim Cang

Hiện thân thần Chấp Kim Cang độ trần.

Vô Tận Ý! Quán Âm Bồ-tát O

Thành tựu phần công đức oai linh

Thần thông hiện các thân hình

Dạo cùng khắp cõi độ sanh thoát nàn.

Các ngươi phải cúng dường chăm chỉ

Chỗ nguy nan vô úy ban ra

Cho nên trong cõi Ta-bà

Gọi vô úy thí đó là Quán Âm.”

Vô Tận Ý thưa rằng: “Bạch Phật

Con cúng dường Bồ-tát Quán Âm”

Cổi xâu anh lạc bảo trân

Báu mầu đáng giá nghìn, trăm lượng vàng

Dâng Bồ-tát thưa rằng: “Nhơn giả

Nhận của này pháp thí bảo trân.”

Bấy giờ Bồ-tát Quán Âm

Không ưng thọ lãnh bảo trân cúng dường.

Vô Tận Ý thưa cùng Bồ-tát:

“Xin từ bi thọ nạp bảo trân”

Bấy giờ Phật bảo Quán Âm:

“Phải thương tứ chúng cùng hàng Thiên, Long

Vô Tận Ý trong vòng Bồ-tát

A-tu-la, Càn-thát, Dạ-xoa

Ca-lầu-la, Khẩn-na-la

Ma-hầu-la với Nhân và Phi nhân

Mà thọ lãnh bảo trân anh lạc.”

Tức thời ngài Bồ-tát Quán Âm

Thương trong tứ chúng các hàng

Thiên, Long, Nhân với các đoàn Phi nhân

Nhận anh lạc hai phần phân tách

Kính dâng lên hai đức Phật Đà

Một phần dâng Phật Thích-ca O

Một phần phụng tháp Phật Đa Bảo gần.

“Vô Tận Ý! Quán Âm Bồ-tát

Có sức thần to tát thế kia

Ta-bà tự tại đi về…”

Ngài Vô Tận Ý kệ thi hỏi rằng:

 

“Đức Thế Tôn tường tốt

Con xin hỏi lại rằng:

Nhơn duyên gì Bồ-tát

Tên gọi Quán Thế Âm?”

 

Phật hoàn toàn tướng quý

Kệ đáp Vô Tận Ý:

“Người nghe lực quán âm

Khắp nơi nơi hiện thị.

 

Hầu nhiều ngàn ức Phật

Nhiều kiếp khó lường biên

Quán Thế Âm Bồ-tát O

Phát rộng thanh tịnh nguyện.

 

Ta vì người lược thuyết

Nghe thấy niệm Quán Âm

Các khổ não tiêu diệt

Nếu một niệm thành tâm.

 

Dầu ai có ác tâm

Xô té hầm lửa độc

Nhờ lực niệm Quán Âm

Hầm lửa thành ao nước.

 

Hoặc ai chìm biển cả

Mắc nạn quỷ, rồng, cá

Nhờ lực niệm Quán Âm

Sóng gió không gây họa.

 

Hoặc có kẻ ác tâm

Từ Tu-di xô ngã

Nhờ lực niệm Quán Âm

Như mặt trời không hạ.

 

Hoặc có kẻ đuổi phăng

Từ Kim Cang té xuống

Nhờ lực niệm Quán Âm

Một mảy lông chẳng tổn.

 

Hoặc giặc oán vây gần

Đều cầm gươm muốn hại

Nhờ lực niệm Quán Âm

Lòng lành kia bỗng khởi.

 

Hoặc tội vua phạm nhằm

Sắp thọ hình tuyệt mạng

Nhờ lực niệm Quán Âm

Đao liền gãy từng đoạn.

 

Hoặc mắc cảnh giam cầm

Tay chân bị còng trói

Nhờ lực niệm Quán Âm

Tự nhiên đặng thoát khỏi.

 

Hoặc bị đầu độc ngầm

Ai mưu hại mình khổ

Nhờ lực niệm Quán Âm

Mưu hại hoàn về đó.

 

Hoặc gặp La sát gần

Rồng độc cùng quỷ quái

Nhờ lực niệm Quán Âm

Thảy đều không dám hại.

 

Bị thú dữ vây quần

Nhăn nanh xòe vuốt đón

Nhờ lực niệm Quán Âm

Vôi tìm đường chạy trốn.

 

Rắn độc và bò cạp

Hà hơi độc đốt khắp

Nhờ lực niêm Quán Âm

Nghe tiếng liền ẩn nấp.

 

Mây giăng sấm sét nháng

Mưa đá tuôn hỗn loạn

Nhờ lực niệm Quán Âm

Tức thời đều tiêu tán.

 

Chúng sanh vướng tai nàn

Thân khổ bức gian nan

Quán Âm sức trí diệu

Năng cứu khổ thế gian.

 

Thần thông lực phi thường

Quán Âm nhiều phương tiện

Các quốc độ mười phương

Không cõi nào chẳng hiện.

 

Các loài trong đường dữ

Nhờ diệu lực Quán Âm

Tam đồ cùng tứ khổ

Khiến thoát khỏi lần lần.

 

Chơn quán, thanh tịnh quán

Trí huệ quán rộng lớn

Bi quán, Từ quán chung

Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng.

 

Thể sáng suốt không dơ

Mặt trời tuệ phá mờ

Năng trừ tai gió, lửa

Soi sáng khắp trần nhơ.

 

Thể Bi như sấm nổ

Lòng Từ tợ mây giăng

Rưới mưa pháp cam lộ

Diệt lửa phiền lao trần.

 

Kiện thưa đến cửa quan,

Trong trận quân kinh hoảng

Nhờ lực niệm Quán Âm

Kẻ oán đều lui tán.

 

Tiếng diệu, tiếng quán thế

Tiếng phạm, tiếng hải triều

Tiếng thế gian khó tỷ

Nên phải niệm thường nhiều.

 

Niệm niệm chớ nghi nan

Quán Âm là tịnh Thánh

Hay làm chỗ dựa nương

Cho kẻ trong khổ cảnh.

 

Đủ tất cả công đức

Mắt lành trong chúng sanh

Rộng không lường biển phước

Nên kính lễ chí thành”. O

 

Có Bồ-tát hiệu danh Trì Địa

Từ chỗ ngồi đứng dậy bạch rằng:

“Chúng sanh nghe lực Quán Âm

Thần thông thị hiện phước tăng, nghiệp mòn.”

Khi Phật nói Phổ Môn diệu phẩm

Chúng hội đông tám vạn bốn ngàn

Nghe rồi đều thảy phát tâm

Bồ-đề Vô thượng thậm thâm diệu huyền. O

 

14. PHỔ MÔN TÁN

Phổ môn thị hiện

Cứu khổ tầm thinh

Từ bi thuyết pháp

Độ khắp mê tình

Theo lời khẩn nguyện

Cảm ứng tùy hình

Tám nàn tiêu diệt

Bốn biển an bình. O

 

15. THẬP NHỊ NGUYỆN 

1. Nam-mô hiệu Viên Thông, danh Tự Tại, Quán Âm Như Lai quảng phát hoằng thệ nguyện. O

2. Nam-mô nhất niệm tâm vô quái ngại, Quán Âm Như Lai thường cư Nam Hải nguyện. O

3. Nam-mô trụ Ta-bà, U minh giới, Quán Âm Như Lai tầm thinh cứu khổ nguyện. O

4. Nam-mô hàng tà ma, trừ yêu quái, Quán Âm Như Lai năng trừ nguy hiểm nguyện. O

5. Nam-mô thanh tịnh bình, thùy dương liễu, Quán Âm Như Lai cam lồ sái tâm nguyện. O

6. Nam-mô đại từ bi, năng hỷ xả, Quán Âm Như Lai thường hành bình đẳng nguyện. O

7. Nam-mô trú dạ tuần vô tổn hoại, Quán Âm Như Lai thệ diệt tam đồ nguyện. O

8. Nam-mô vọng nam nham, cầu lễ bái, Quán Âm Như Lai già tỏa giải thoát nguyện. O

9. Nam-mô tạo pháp thuyền, du khổ hải, Quán âm Như Lai độ tận chúng sanh nguyện. O

10. Nam-mô tiền tràng phan, hậu bảo cái, Quán Âm Như Lai tiếp dẫn Tây phương nguyện. O

11. Nam-mô Vô Lượng Thọ Phật cảnh giới, Quán Âm Như Lai tiếp dẫn Tây phương nguyện. O

12. Nam-mô đoan nghiêm thân, vô tỷ toại, Quán Âm Như Lai quả tu thập nhị nguyện. O

 

16. QUÁN ÂM TÁN

Viên Thông hiệu quý

Đại sĩ Quán Âm

Mười hai nguyện lớn

Quảng đại cao thâm

Vào nơi khổ hải

Độ khỏi mê tân

Tầm thinh cứu khổ

Chốn chốn hiện thân. O

Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát. O (3 lần)

 

17. BÁT-NHÃ TÂM KINH

Khi hành Bát-nhã Ba-la

Ngài Quán Tự Tại soi ra tột cùng

Thấy ra năm uẩn đều không

Bao nhiêu khổ ách khốn cùng độ qua.

Này Xá-Lợi Tử xét ra

Không là sắc đó, sắc là không đây

Sắc cùng không chẳng khác sai

Không cùng sắc cũng sánh tày như nhau

Thọ, tưởng, hành, thức uẩn nào

Cũng như sắc uẩn một màu không không.

Này Xá-Lợi Tử ghi lòng

Không không tướng ấy đều không tướng hình

Không tăng giảm, không trược thanh

Cũng không diệt, cũng không sanh: pháp đồng

Vậy nên trong cái chơn không

Vốn không năm uẩn, cũng không sáu trần

Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân

Vị, hương, xúc, pháp, cùng phần sắc, thinh

Từ không giới hạn mắt nhìn

Đến không ý thức, vô minh cũng đồng

Hết vô minh cũng vẫn không

Hết già, hết chết, giả không có gì

Không khổ, tập, diệt, đạo kia

Trí huệ chứng đắc cũng là không không

Sở thành sở đắc bởi không

Các vị Bồ-tát nương tùng tuệ năng

Tâm không còn chút ngại ngăn

Nên không còn chút băn khoăn sợ gì

Đảo điên mộng tưởng xa lìa

Niết-bàn mới đến bên kia bến bờ

Ba đời chư Phật sau xưa

Đắc thành Chánh giác đã nhờ huệ năng.

Trí huệ năng lực vô ngần

Đại minh vô thượng, đại thần cao siêu

Trí huệ năng lực có nhiều

Thật là thần chú trừ tiêu não phiền

Trí huệ năng lực vô biên

Dẫn đường giải thoát qua bên giác ngàn.

Liền theo lời chú thuyết rằng:

Độ tha, giác ngộ khắp trần chúng sanh. O

 

18. THẬP NGUYỆN

MỘT nguyền lễ kính Như Lai

HAI nguyền xưng tán công dày Thế Tôn

BA nguyền tu phước cúng dường

BỐN nguyền sám hối nghiệp vương tội trần

NĂM nguyền tùy hỷ công huân

SÁU nguyền thỉnh chuyển pháp luân độ người

BẢY nguyền thỉnh Phật ở đời

TÁM nguyền học Phật tùy thời phát minh

CHÍN nguyền hằng thuận chúng sanh

MƯỜI nguyền hồi hướng phước lành khắp nơi. O

 

19. PHÚNG KINH

Tụng kinh công đức tuyệt vời

Xin đem hồi hướng khắp người gần xa

Chúng sanh pháp giới Ta-bà

Mau về cõi Phật Di-Đà Tây thiên. O

 

20. NGUYỆN TIÊU

Nguyện tiêu tam chướng não phiền

Nguyện thành trí huệ vô biên tuyệt vời

Nguyện bao nghiệp tội xa rời

Nguyện hành Bồ-tát đời đời độ tha. O

 

21. NGUYỆN SANH

Nguyện về Tịnh độ nước nhà

Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình

Hoa khai ngộ pháp vô sanh

Bất thối Bồ-tát bạn lành dựa nương. O

 

22. HỒI HƯỚNG

Nguyện đem công đức lành

Hồi hướng cho tất cả

Chúng con với chúng sanh

Đều chứng thành Phật quả. O

 

23. TAM TỰ QUY Y

Tự quy y Phật

Cầu cho chúng sanh

Hiểu rõ đạo lành

Phát lòng vô thượng. O

 

Tự quy y Pháp

Cầu cho chúng sanh

Kinh luật hiểu rành

Trí huệ như biển. O

 

Tự quy y Tăng

Cầu cho chúng sanh

Hiệp chúng đồng tình

Chẳng hề trở ngại. O

 

24. LỜI KHUYÊN NHẮC

Mỗi khi có tai nạn, bệnh hoạn ốm đau, là do tai ách quả nghiệp dồn dập nặng nề… Muốn tháo cởi oan gia nghiệp báo ấy, thì nên in kinh pháp ấn tống, xin hồi hướng ấy cho tiêu tai dứt nghiệp…

Hoặc gia đình Phật tử có cha mẹ, ông bà gì lâm chung, muốn cho các hương linh được nhẹ nhàng siêu độ, thì nên phát tâm ấn tống kinh, nhờ mỗi người được xem kinh thành tâm cầu nguyện, thì công đức phước báu ấy thật là vô lượng vô biên, hương linh chắc chắn được nhẹ nhàng siêu thoát. Chớ nên đốt lầu kho, quần áo, giấy tiền vàng bạc… đừng xài phung phí tốn kém vô ích lại còn mang tiếng mê tín dị đoan để cho tà sư ngoại giáo khinh chê Phật pháp, thì kẻ ấy lại càng đắc tội.