Tại khóa tu Truyền thống Khất sĩ lần thứ 38, sáng 26/10/2025 (6/9/Ất Tỵ), HT. Minh Thành – UVTT HĐTS GHPGVN, Phó Viện trưởng VNCPHVN, Phó ban Ban Thường trực Giáo phẩm Hệ phái, Trưởng Ban Giáo dục Tu thư PGKS, Tri sự Phó GĐ.IV PGKS, đã quang lâm khóa tu và có thời giảng pháp với chủ đề “Vai trò của đức tin trong Chơn lý theo các hướng tham chiếu với hệ tư tưởng Phật giáo”.
.jpg)
Bài pháp được Hòa thượng xây dựng dựa trên 3 trụ cột chính:
Hòa thượng nhấn mạnh: “Chơn lý là bất di bất dịch, còn lời bàn chỉ là phương tiện diễn giải phù hợp với căn cơ và trình độ của người học”. Theo đó, chín câu Chơn lý được Hòa thượng chia thành bốn nhóm ý chính:
.jpg)
Đối với đức tin trong tinh thần Kinh Hoa Nghiêm, Hòa thượng trích dẫn từ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh: “Tín vi đạo nguyên công đức mẫu, trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện pháp”.
Trong đó, Hòa thượng lưu ý về phương diện học thuật, nhiều người thường đọc “thiện căn”, nhưng theo đối chiếu với Hán tạng, bản chính văn của Kinh Hoa Nghiêm ghi là “thiện pháp”. Đây là điểm quan trọng, thể hiện tinh thần thận trọng học thuật trong việc trích dẫn kinh điển, tránh sai lệch ý nghĩa nguyên bản.
Đối với đức tin trong đời sống và tu tập, từ khía cạnh đời thường, Hòa thượng cho rằng, đức tin hiện hữu như không khí, bao trùm trong mọi hành vi của con người, nhưng con người thường không nhận ra. Hòa thượng chỉ rõ, khi ăn một muỗng cơm, con người cần có niềm tin, tin rằng không có độc tố; khi mặc một chiếc áo, con người cũng cần có niềm tin, tin rằng nó giúp ngừa nóng, ngừa lạnh, phù hợp văn hóa, không phản cảm… Cũng vậy, trong đời sống tu học, hành giả đến dự khóa tu, phát tâm trì giới, hành thiền… cũng đều nhờ có niềm tin làm điểm tựa, tin rằng bản thân đủ sức khỏe, tin có môi trường rèn luyện thân - khẩu - ý - trí - tâm, tin có thể thắt chặt quan hệ với bạn đồng tu, với giáo pháp Tồ Thầy.
“Do đó, đức tin không chỉ thuộc về tôn giáo, mà là mạch sống tinh thần của con người. Có đức tin, con người mới vượt qua được nỗi sợ, sự nghi ngờ và đạt đến an lạc”, HT. Minh Thành nhấn mạnh.
.jpg)
Nêu lên vai trò của đức tin ở giai đoạn sơ phát tâm, Hòa thượng dẫn lời dạy của Tổ sư trong Chơn lý “Quan Thế Âm”: “Tuy không phải sự thật, nhưng những ai có đức tin cầu vái mơ vọng… thì nhiều khi tinh thần của mình xuất hiện ra cũng thấy có y như vậy. Hoặc cũng có khi cũng có đôi khi chư Thiên xung quanh vì thương xót mà chứng hiện cho để giúp đỡ cho người Hai hậu niệm cho người tin tưởng yếu ớt, nhỏ nhôi thấp thổi. Sự thật quả y như thế. Đức tin cũng giúp ích cho người kém trí được chút ít nhưng chẳng quý bằng pháp bảo, đạo lý, chơn lý, triết lý, trí huệ”.
Qua đó, Hòa thượng phân tích, vai trò của đức tin ở giai đoạn sơ phát tâm có tác dụng khơi mở tinh tấn, giúp hành giả cảm thấy phấn khởi khi nói ra được điều ước nguyện thầm kín. Tuy nhiên, đức tin này vẫn là “phương tiện”, cần hướng đến pháp bảo, đạo lý, chơn lý, triết lý và trí huệ. Như trong Chơn lý “Thần mật”, Đức Tồ sư dạy: “Người ta niệm tưởng đến một danh hiệu mà họ ưa thích hơn hết, hoặc tự họ đặt ra một cái tên tiên phật gì đó họ tin tưởng như là có hiện ở trước mặt, ở trên đầu, ở sau lưng, hay là ở vào thân - miệng - ý. Nhờ như thế mà họ tinh tấn và kết quả linh thiên... Có tin mới có mật, không tin không có mật. Vì không có đức tin thì không thành tựu việc chi hết”.
Như vậy, theo Hòa thượng, đức tin là phương tiện, hay công cụ mượn tạm để đạt sự tinh tấn và sự ẩn mật. Quan điểm này phù hợp với Phẩm Phương tiện (phẩm thứ hai trong kinh Pháp Hoa), xem đức tin là công cụ, là chiếc bè, chứ không phải là cứu cánh.
.jpg)
Kết nối đức tin với các hệ tư tưởng Phật giáo, HT. Minh Thành đưa ra 4 hệ tư tưởng lớn để tham chiếu, phân tích chuyên sâu:
Qua đó, Hòa thượng nhận định: “Từ Nguyên thủy đến Đại thừa, Tịnh độ và Thiền, tất cả đều quy về một mối, đức tin chính là nền tảng của đạo, nhưng không phải cứu cánh. Đức tin giúp ta đi, nhưng trí tuệ mới đưa ta đến”.
.jpg)
Nói về đức tin trong việc đối trị bệnh tật và mệt mỏi, Hòa thượng cũng trích các đoạn Chơn lý mô tả những trường hợp người hành đạo nhờ đức tin mà vượt qua đói khát, bệnh tật và mỏi mệt. Ví như một người đi đường xa đói bụng, tưởng tượng mình được ăn bánh ngọt, cử động tay chân như lúc ăn no. Nhờ giữ mãi đề mục ấy nơi thân - khẩu - ý, thêm đức tin nguyện vái, họ thấy ngọt miệng, no bụng, tinh thần hăng hái trở lại, có thể nhịn thêm bữa nữa.
Hòa thượng chỉ rõ: “Khi tâm tin đủ mạnh, thân - khẩu - ý đều hòa hợp trong năng lượng của đức tin thì sinh ra sự linh ứng. Nhưng ‘linh’ không đến từ bên ngoài, mà chính là năng lực tỉnh giác nội tại của hành giả, tức là là phải có sự ẩn mật (tự tu, tự tập, tự rèn, tự luyện, tự tỉnh giác nơi tâm). Tuy nhiên, trong hoằng pháp, khi hóa độ cư sĩ, không nên phủ định thẳng thừng tín ngưỡng dân gian, mà cần khéo léo chuyển hóa niềm tin ấy trở về chánh tín”.
Đối với đức tin trong sự siêng năng và chuyên chú, Hòa thượng trích đoạn Chơn lý nói về người liều mạng vì lý tưởng giải thoát, từ đó nhận định, đức tin giúp hành giả vượt qua mệt nhọc, nhàm chán, giữ tâm chuyên chú và kiên định nơi mục tiêu. Như Tổ sư dạy: “Tôi là học trò, bổn phận của tôi là chăm chỉ học hành, tu tập, đó là con đường của tôi. Tôi phải có đức tin rằng tôi sẽ thành công như Thầy tôi”. Qua đó, Hòa thượng nhấn mạnh ý tứ đặc biệt của câu này và khuyên hành giả giảm độ phóng tâm, biết dừng ở mục tiêu vừa sức, không đứng núi này trông núi nọ.
.jpg)
Kết thúc bài pháp, HT. Minh Thành đúc kết: “Đức tin là gốc của đạo, là ngọn đèn dẫn đường, là phương tiện để vượt qua nghi ngờ và sợ hãi. Nhưng người hành đạo cần tiến xa hơn, từ đức tin đến trí tuệ, từ phương tiện đến cứu cánh. Khi đạt đến trí huệ, hành giả không còn nương tựa vào đức tin, vì chính tuệ giác đã là đức tin tuyệt đối”.
Hòa thượng nhắc lại lời dạy của Đức Tổ sư để khép lại buổi giảng: “Chơn lý không phủ nhận đức tin, mà khuyến khích dùng đức tin đúng chỗ, đúng lúc, để không rơi vào mê tín dị đoan”.
Một số hình ảnh được ghi nhận:
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)