Sáng nay, sau bữa điểm tâm với thầy Trụ trì trẻ tuổi của Thiền viện Pháp Thuận ở một vùng đồi núi khá hoang sơ. Con đường nhỏ chạy ngang qua có cái tên dễ thương là Đường Lâu Đài Cổ (Old Castle Road).
Nhàn nhã và thảnh thơi, người viết vừa nghuệch ngoạc những dòng chữ lên xấp giấy nháp vừa thưởng thức ánh nắng ban mai, sáng mà không chói, ấm nhẹ pha với tí sương còn phảng phất nên vừa đủ ôn độ cần thiết cho cơ thể vật lý. Người viết nghiêng người chênh chếch, chiếc võng chao nhẹ bên ngoài mái hiên gian Thiền thất, dưới tán lá của một cây cổ thụ không tên không tuổi. Tất cả làm cho buổi sáng trở nên đậm chất nguyên sơ của ngàn năm trầm mặc.
Vài con chim ruồi, loại cực nhỏ, lặng lẽ chuyền cành, có lẽ cũng đang thưởng thức làn không khí nhiệm mầu. Những con nhện bé xíu đã đi đâu vắng nhà. Tia mặt trời xuyên qua những mảng tơ nhuyễn giăng bâng quơ đây đó, thi thoảng có những sợi tơ to hơn, thẳng hơn, long lanh óng ả hòa quang vào ánh sáng mặt trời, phản chiếu.
Mầu nhiệm đâu cần những điều phi thường, siêu nhiên và kỳ lạ. Mầu nhiệm đang hiện hữu nơi từng chi tiết thật nhỏ ngay đây. Chỉ cần để tâm lặng lẽ, dứt các phan duyên, trả đôi mắt về với chức năng đơn sơ của nó, trả đôi tai về với chức năng đơn sơ của nó, để mà thấy mà nghe. Mầu nhiệm đang có mặt. Cả vũ trụ đang vận hành. Mắt và tai tiếp nhận được từ cái tầng gần nhất đến cái tầng xa xôi diệu viễn nhất… vũ trụ thiên hà.
Chuyển người, vươn duỗi hết độ dài của xương cốt cho đến khi các khớp và các lớp sụn đạt đến độ dài tối đa. Để yên vài phút cho ánh sáng ban mai thấm vào. Độ thư thái tăng dần lên, tai mắt tinh tường hơn, nghe được cả những tầng âm vực của mênh mông thăm thẳm, nhìn thấy cả những hạt bụi đang rơi của một hiện thực đa tầng nghĩa…
…Con người không chỉ làm thay đổi bề mặt quả địa cầu mà còn làm thay đổi bộ diện của bề mặt đại dương với đủ loại thuyền bè và hàng không mẫu hạm. Con người không chỉ làm thay đổi bộ diện dưới mặt nước của đại dương với tàu ngầm và thủy lôi, cáp quang và tuyến thông tin các loại mà còn làm thay đổi bầu trời với các loại máy bay nhanh chậm khác nhau. Trong không gian đã điểm xuyết những con tàu vũ trụ, những phương tiện phi hành, những hệ thống vệ tinh và những trạm dừng chân dưỡng sức. Sức chinh phục thế giới bên ngoài đã là kỳ vĩ. Vì sao? Vì mầu nhiệm đang có mặt.
Sức chinh phục thế giới bên trong cũng đã từng và có lẽ đang âm thầm kỳ vĩ và mầu nhiệm. Những Thiền giả đỉnh cao xưa nay đã giải mã thế giới tâm thức. Có những lần giải mã mạnh đến đỗi đã tạo nên những cơn “địa chấn sáu (6) cách” như trường hợp của thái tử Sĩ-đạt-ta ngồi tòa Bồ-đề chiến thắng ma quân, thành bậc Chánh đẳng giác, tháo tung xiềng xích của vô minh, loại xiềng xích từng trói chặt thân phận con người hàng nhiều chục ngàn năm lịch sử.
Đã có một Lão tử, một Khổng tử thời cổ đại, một Phật hoàng Trần Nhân Tông thời trung đại với những mức độ hiển thánh kỳ vĩ khác nhau. Mầu nhiệm có mặt, trọn vẹn và tinh khôi. Chỉ có mức độ mở mắt và kiểu lóng tai của mỗi một cá nhân là khác biệt mà thôi.
Vài hôm nữa là lễ Vu Lan, một lễ hội đậm đặc màu sắc âm siêu dương thới. Lễ hội có trọng tâm là chữ Hiếu, một phiên bản của chữ Hiếu có mức độ chuyển mình của hành trì Phật giáo. Gọi là chuyển mình vì hành trì trong nhà Phật có trọng tâm là chữ Giải thoát. Giữa chữ Giải thoát và chữ Hiếu có một khoảng cách nhất định. Lý tưởng Bồ tát đã thu hẹp và xử lý thành công khoảng cách này về phương diện tư tưởng và cả về phương diện triển khai tư tưởng vào hiện thực đời sống. Mầu nhiệm có mặt, tổng nhiếp và viên dung.
Sự tiếp cận nội dung của lễ Vu Lan có thể chia thành ba tuyến: Tuyến tình cảm thiêng liêng, tuyến đạo đức nhân nghĩa và tuyến tuệ giác siêu việt. Ba tuyến này bổ sung tương tác với nhau để tạo thành một lễ hội Vu Lan có nội dung toàn vẹn nhất.
1. Tuyến tình cảm thiêng liêng
Tình mẹ con là đại diện tiêu biểu nhất trong thế giới của tình cảm thiêng liêng. Hai sự sống từng là một theo nghĩa vật lý và cảm xúc.
“Thuở ấy, con nằm trong bụng mẹ
Đói no, ấm lạnh, hưởng như nhau
Thân con, thân mẹ, thân là một
Cùng một niềm vui, cùng nỗi đau”.
Thế mà khi con lớn lên, câu chuyện bất nhẫn nhiều lúc diễn ra:
“Cha mẹ nuôi con hải hà lai láng
Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày”.
Khác xa với câu chuyện bất nhẫn của ải nhân gian là câu chuyện tình cảm của người con có hiếu:
“Mẹ ơi, tiếng ngọt ngào
Trăm ngàn năm vẫn làm nao cõi lòng.
Cha ơi, bóng quê hương
Trời biển rộng vẫn còn thương nhớ hoài”.
2. Tuyến đạo đức nhân nghĩa
Trong truyền thống văn hóa phương Đông, đạo đức nhân nghĩa là một tuyến quan trọng, sâu sắc và đậm đà. Trung tâm của truyền thống đạo đức ấy là chữ Hiếu. Một người không giữ được đạo nghĩa trước sau đối với cha mẹ thì khó có thể tin rằng người đó sẽ giữ được đạo nghĩa trước sau trong những mối quan hệ xã hội khác. Nói gọn hơn, đối xử tệ bạc với cha mẹ thì khó mà đối xử tử tế với người khác. Đối với người đó, chuyện trước sau nhân hậu là chuyện xa vời. Trường hợp một người không giữ được đạo đức tối thiểu đối với cha mẹ thì nguyên lý nhân quả của nhà Phật cảnh giác người đó rằng:
“Hiếu thuận hườn sanh hiếu thuận tử
Ngỗ nghịch hườn sanh ngỗ nghịch nhi
Bất tín đản khán diềm đầu thủy
Điểm điểm đích đích bất sai di”.
3. Tuyến trí tuệ siêu việt
Chữ Hiếu được kinh tạng truyền thống trình bày chuẩn mực và rõ ràng. Kinh Tăng Chi Bộ, chương Ba pháp, phẩm Sứ giả của trời nói như sau:
“Cha mẹ gọi Phạm thiên
Bậc đạo sư đời trước
Xứng đáng được cúng dường
Vì thương đến con cháu.
Do vậy bậc hiền triết
Đảnh lễ và tôn trọng
Dâng đồ ăn đồ uống
Vải mặc và giường nằm
Thoa bóp cả thân mình
Tắm rửa cả tay chân.
Với sở hành như vậy
Đối với mẹ và cha
Đời này người hiền khen
Đời sau hưởng thiên lạc”.
Kinh Tăng Chi Bộ, phẩm Tâm thăng bằng nói như sau: “Này các Tỷ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn, an trú cha mẹ vào lòng tin; đối với cha mẹ theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú cha mẹ vào thiện giới; đối với cha mẹ xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú cha mẹ vào bố thí; đối với cha mẹ theo ác tuệ, khuyến khích, hướng dẫn cha mẹ vào trí tuệ. Như vậy là làm đủ cho mẹ và cha”.
Như vậy, chữ Hiếu mà đạo Phật tuyên bố một cách rõ ràng và chuẩn mực góp phần định hình mối quan hệ cha mẹ với con cái trong gia đình của lục địa Ấn Độ nhiều ngàn năm về trước. Xuất phát từ nền văn hóa đạo đức đó, đạo Phật lan tỏa theo những tuyến di chuyển hay di dân của con người và đã chạm đến một trong những nền văn hóa lâu đời khác. Đó là nền văn hóa của lục địa Trung Hoa. Hai nền văn hóa đạo đức gặp nhau và đối thoại với nhau.
Chữ Hiếu của Phật giáo và chữ Hiếu của Khổng giáo có độ chênh nhau. Chữ Hiếu trong đạo Phật nguyên chất có nội hàm là phẩm tính giải thoát, vì vậy mà có mức độ xung đột nhất định với chữ Hiếu trong đạo Khổng có nội hàm là tính chất ràng buộc của bổn phận. Giải thoát và ràng buộc vốn phản nghĩa với nhau. Vì vậy, chữ Hiếu của hai nền văn hóa có hai nội hàm chênh nhau.
Trong đạo Khổng, chữ Hiếu được cụ thể hóa thành bổn phận của người con. Người con có Hiếu trong đạo Khổng là phải lập gia đình sinh con để nối dõi tông đường. Người nào không sinh con mà để cho dòng họ phải tuyệt tự là cấp độ bất hiếu cao nhất. Ngược lại, trong đạo Phật, giải thoát lại có nghĩa là mở xiềng, tháo khóa. Dòng sông văn hóa có một bờ bên này là Ấn Độ với một bờ bên kia là Trung Hoa.
Lý tưởng hay phẩm tính giải thoát của một bờ Ấn Độ bên này thể hiện cao nhất bằng lộ trình bắt đầu bằng hành động cắt ái ly gia để phát túc siêu phương. Về hiện tượng thì đó là cắt bỏ bổn phận đối với gia đình, bổn phận đối với cha mẹ, bổn phận phải tạo ra người nối dõi.[1]
Phía bên kia dòng sông văn hóa, chữ Hiếu của Trung Hoa lại là chỗ khởi động của một bậc chính nhân quân tử với lý tưởng cao nhất là “Bình thiên hạ”. Lộ trình thực hiện chí lớn không có xuất phát điểm là bỏ nhà vượt sông A-nô-ma để vào rừng mà xuất phát điểm là “Tề gia”. Tề gia có thể hiểu là đáp ứng đúng và đủ bổn phận trong các mối quan hệ gia đình gồm cha mẹ, vợ con và sự nghiệp mà tiền nhân để lại.
Đạo Phật muốn vượt qua dòng sông văn hóa lúc ấy đang cách trở đôi bờ thì đạo Phật phải chuyển mình để làm mờ đi khoảng cách khác nhau giữa cột chặt của Trung Hoa với cắt rời của Ấn Độ, giữa khóa cứng của Trung Hoa và tháo tung của Ấn Độ. Để kết nối đôi bờ đạo Phật đã chuyển mình và viết thêm những trang mới vào tự điển văn hóa, tự điển triết học của loài người. Trước tiên, đạo Phật tháo rời cái khung nhỏ hẹp của chữ Hiếu ràng buộc nhau giữa các thành viên trong gia đình của đạo Khổng và thay vào đó là một cái khung mới “to đùng” chứa đựng tất cả sinh linh hiện đời và nhiều đời nhiều kiếp theo phong cách ai cũng có thể từng là thành viên gia đình của nhau trong đạo Phật.
Điểm nhấn trong cái khung mới của chữ Hiếu, ai cũng có thể là cha mẹ trong vô lượng kiếp luân hồi. Với cái khung mới này, đạo Phật nhận được vô số những cái mĩm cười hoan hỷ. Ông hàng xóm bên này sông, tuổi tác ho sù sụ, mặt nhăn nhó cũng mỉm cười với đạo Phật. Bà góa bụa bên kia sông, tính khí quay quắc, chanh chua, đanh đá cũng mỉm cười với đạo Phật. Vì sao? Vì cả hai đều được đưa vào danh sách cha mẹ nhiều đời của những người con Phật có tấm lòng.
Hiện thực hóa khung nhìn đó, đạo Phật thiết kế một lễ hội hoành tráng mang đặc nét giao hòa Trung - Ấn, một lễ hội lan tỏa rộng khắp vì có sức lay động lòng người từ hang cùng ngõ hẻm đến phủ đệ vương cung. Nhân vật chính là tôn giả Mục-kiền-liên. Tôn giả Mục-kiền-liên xếp lại pháp phục kiểu tam y nhất bát, đầu trần chân đất, rày đây mai đó, vô sản ở mức cao nhất của một vị A-la- hán, hình tượng tiêu biểu cho đạo Phật cổ điển, để khoác lên chiếc áo của nhân vật có tiền của và có điều kiện. Đó là một đại gia thí chủ với trí tuệ, cảm xúc và phương tiện. Hình tượng tiêu biểu cho đạo
Phật phát triển. Vị đại gia này có đầy đủ phẩm chất giải thoát của đạo Phật nguyên chất, đồng thời còn có năng lực tài chính và của cải vật chất, đủ để tổ chức một đại trai đàn, chi phí hàng nhiều chục triệu đồng (tùy thuộc vào thời giá và tỷ giá), thỉnh mời hàng ngàn vị Tăng Ni.
Sứ mệnh mới không phải là hoằng truyền đạo giải thoát nguyên chất một cách trực tiếp mà là phổ truyền chữ giải thoát một cách gián tiếp ngang qua chữ Hiếu. Một chữ Hiếu mang nội hàm Bồ tát hạnh theo nghĩa dung thông nhất. Đạo Phật đã thành công, đã vượt qua được dòng sông văn hóa đã từng có thời kỳ ngăn cách đôi bờ. Đạo Phật đã mở toang cánh cửa lòng người và cắm những chiếc rễ tâm linh vững chãi vào nền văn hóa Trung Hoa, ảnh hưởng cả một khu vực văn hóa rộng lớn. Đại lễ hội Vu Lan phá tan cửa ngục xóa tội vong nhân, mở rộng cửa lòng các đấng sinh thành và những người con hiền hiếu. Hơn hết, đại lễ hội Vu Lan đã nối kết giao hòa hai nền văn hóa Ấn - Hoa, tạo thành một chỉnh thể đạo Phật vô ngã vị tha, viên dung vô ngại, tốt đạo đẹp đời, lợi lạc nhân sanh.
Mầu nhiệm đã có mặt trong từng bước chân thanh thoát của đạo Phật với tinh hoa giải thoát hòa quyện với đức tính của vị Bồ tát, vô ngã vị tha. Hành giả nhà Phật chỉ cần mở con mắt thứ ba, con mắt tỉnh thức không rơi vào thiên kiến hai bên thì sự mầu nhiệm ùa vào. Tiếng chào nhau giữa vị thầy Trụ trì trẻ tuổi và một nhóm huynh đệ Phật tử vang đến khiến người viết rời khỏi dòng chảy của câu chữ và quay về tiếp xúc với thế giới tương giao giữa những người pháp lữ. Người viết đứng lên chỉnh sửa y áo, chào hỏi và châm trà. Vừa thưởng trà, vừa đàm đạo về những điều mầu nhiệm và chữ Hiếu mà người viết vừa mới trải trên mặt giấy trắng tinh khôi.
[1]. Thái tử Sĩ-đạt-ta cũng đã khởi động lộ trình Phát túc siêu phương bằng cách cắt đứt một loạt những bổn phận đối với cha mẹ, vợ con, và sự nghiệp mà tổ tiên để lại. Sau khi thành đạo đức Phật có trở về hoàng cung nhưng Ngài trở về với tư cách của bậc đạo sư mang sứ mệnh giáo hóa với nội hàm là làm mới và nâng cấp tất cả các mối quan hệ mà không hề có ý nối lại những mối quan hệ cũ đã cắt lìa.
THỂ NHƯ
(Trích Đuốc Sen số 35)