Chiều 15/11/2025 (26/9/Ất Tỵ), trong không khí trang nghiêm và thanh tịnh của ngày tu học thứ hai, ĐĐ. Minh Đăng đã chia sẻ thời pháp dựa trên Chơn lý số 44 "Tu và Nghiệp" của Tổ sư Minh Đăng Quang, mở ra cho hội chúng một góc nhìn sáng rõ hơn về mối quan hệ mật thiết giữa nghiệp lực và sự tu tập.
.jpg)
Mở đầu thời pháp, ĐĐ. Minh Đăng tóm lược những ý quan trọng trong Chơn lý "Tu và Nghiệp". Theo lời Tổ sư, nghiệp hình thành từ ba cửa thân - khẩu - ý và là dấu ấn của mọi hành vi do chính mình tạo tác. "Không có một ngoại lực, thần linh hay quyền năng siêu nhiên nào chi phối số phận con người. Mọi khổ đau hay hạnh phúc đều từ nghiệp của chính mình mà ra", Đại đức nhấn mạnh.
Tổ sư dạy:
– Tu là chỉnh sửa ba nghiệp.
– Tu là làm mới chính mình, cắt lìa những thói quen bất thiện.
– Tu là chuyển nghiệp cũ, ngăn nghiệp mới, để con người được nhẹ nhàng, an lạc.
Đại đức phân tích, Chơn lý này không phải là lý thuyết khô khan, mà là một bản đồ thực hành, chỉ rõ cho người tu thấy gốc rễ của khổ, nghiệp và phương pháp đoạn trừ nó qua con đường tu tập liên tục, chánh niệm và tỉnh giác. Trong đó, Đại đức nêu rõ tinh thần xuyên suốt của Tổ sư chính là, muốn hết khổ thì phải tự chỉnh sửa mình, muốn chuyển nghiệp thì phải bắt đầu từ từng ý nghĩ, từng lời nói và từng hành động trong đời sống hằng ngày.
.jpg)
Bên cạnh đó, ĐĐ. Minh Đăng cũng nhấn mạnh về thái độ “vui vẻ trả nghiệp cũ”: "Người tu không chạy trốn nghịch cảnh, cũng không oán trách khi gặp khó khăn, bởi đó chính là quả báo của những nhân xưa mình đã gieo. Khi quả đến, phải đón nhận bằng sự hiểu biết và bình thản thì nghiệp ấy mới nhẹ và được hóa giải. Người tu mà sợ khổ thì khó tiến xa. Nghiệp đã gieo phải trả. Vui trả là giải. Khổ trả là trói”.
Tinh thần này phản ánh đúng tinh túy Chơn lý, chuyển nghiệp không phải bằng sự chống đối, mà bằng trí tuệ và tâm bình thản. Vui chịu chính là giải, còn chấp mê, sân hận, chính là trói thêm nghiệp.
Đại đức nhắc lại lời Tổ sư: “Tu là chịu trước. Khổ là trả sau”, qua đó nhận định, hành giả hiểu như vậy thì giữa trăm cảnh trái nghịch vẫn giữ được tâm an, không thối chí, không dao động.
Theo Đại đức, người xuất gia cần phải có "tịnh tín", tức niềm tin trong sạch và chơn chánh, yếu tố quyết định sự thành tựu của người xuất gia. Đại đức chỉ rõ, tịnh tín gồm có: Niềm tin kiên cố vào Tam bảo, vào con đường Phật dạy; sự kính trọng và tuân giữ nghiêm giới luật; quyết tâm lìa đời sống thế tục để chọn đời sống phạm hạnh; lòng kiên định với con đường Khất sĩ mà mình đã phát nguyện.
.jpg)
“Xuất gia mà không có tịnh tín thì như nhà không móng, chỉ cần một cơn gió nhẹ cũng nghiêng ngã. Có tịnh tín thì mới bền chí, mới tiến bước vững vàng. Người tu thiếu tịnh tín thì dễ bị đời sống thế tục kéo lôi, dễ nản khi gặp nghịch duyên, không đủ nội lực để vượt qua phiền não. Vì vậy, tịnh tín chính là nền móng để xây dựng Giới - Định - Tuệ”, ĐĐ. Minh Đăng khẳng định.
Cuối thời pháp, ĐĐ. Minh Đăng hướng hội chúng về hình ảnh chư Trưởng lão Hệ phái, những bậc đã chọn đời sống thanh bần, giữ giới nghiêm tịnh và tận tâm hoằng pháp. Trong đó, Đại đức kể lại nhiều tấm gương nổi bật về việc: Suốt đời hành trì giới luật không hề sai phạm; Nếp sống giản dị, tri túc, không cầu danh lợi; Không mệt mỏi trong việc giảng dạy, giáo hóa; Chuyên tâm tu tập thiền định, tinh tấn không ngừng.
Đại đức khuyến tấn hội chúng: "Những hình ảnh ấy là ngọn đuốc soi đường, giúp Tăng Ni trẻ chúng ta thấy được giá trị chân thật của Khất sĩ, sống cho đạo, phụng sự chúng sinh và gìn giữ những gì Tổ sư đã trao truyền. Khất sĩ chúng ta phải noi theo những tấm gương sáng ấy, lấy đó làm động lực để tu tập tinh tấn hơn, trưởng dưỡng đạo tâm và kiên cố chí nguyện xuất gia".
Một số hình ảnh được ghi nhận:
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)