Chiều 31/10/2025 (11/9/Ất Tỵ), tiếp nối thời khóa trong ngày thứ 9 của khóa tu Truyền thống Khất sĩ lần thứ 38, TT. Giác Phương – Giáo phẩm Hệ phái, trụ trì Tịnh xá Ngọc Thạnh (Bà Rịa - Vũng tàu cũ), đã có những chia sẻ về Tứ đại Hạnh của Bồ Tát, đồng thời đối chiếu tinh thần ấy với tấm gương sáng ngời của Đức Tổ sư Minh Đăng Quang, qua đó khơi mở cho chư hành giả thấy được phương hướng tu học rốt ráo trong truyền thống Phật giáo Khất sĩ.
.jpg)
Mở đầu thời pháp, TT. Giác Phương xác định khái niệm “hạnh” theo tinh thần Phật dạy, theo đó, “hạnh” là những hành động thiện lành được phát khởi từ thân, khẩu và ý niệm, đưa người tu bước vào con đường Giới - Định - Tuệ và hướng đến sự giác ngộ. Căn bản của “hạnh” là nhận biết chính mình và chuyển hóa chính mình, vì chỉ khi nào thân tâm được điều phục, hành giả mới có thể tiếp nhận sâu sắc giáo pháp và hành trì theo chánh đạo.
Từ nền tảng này, Thượng tọa tuần tự trình bày bốn “hạnh” lớn mà kinh điển thường gọi là Tứ đại Hạnh của Bồ-tát, vốn là bốn pháp tu “vừa muôn đời sâu sắc, vừa vô cùng thiết thực trong đời sống thường nhật”, Thượng tọa khẳng định. Tứ đại Hạnh bao gồm:
1. Báo Oán Hạnh – Nhận và chuyển hóa những trái nghịch trong cuộc đời
Thượng tọa nhấn mạnh: “Người phàm phu tự nhiên thích sở hữu, thích vui, thích thuận ý; còn những gì nghịch lòng, mất mát, khổ đau thì tìm cách xua đuổi. Nhưng theo nhân quả ba đời, những điều trái nghịch mà ta đang nhận lấy chính là quả báo từ những nhân duyên xa xưa. Khi không hiểu điều này, con người dễ than trách, đổ lỗi và càng tạo thêm nghiệp bất thiện”.
Kể câu chuyện về một vị Hòa thượng cả đời mong mỏi xây dựng tự viện, nuôi Tăng chúng tu học, nhưng rốt cuộc không thành tựu, thậm chí bị hiểu lầm là khó tính, Thượng tọa cho biết, vị ấy về sau tự soi lại và nhận ra đời trước mình từng tạo nghiệp bất hòa hợp Tăng, nên đời này không có duyên độ người. Từ sự tự quán chiếu nghiệp báo của mình và buông bỏ từ vị Hòa thượng ấy, Thượng tọa nhắc lại một triết lý sâu sắc: “Thế giới không phải của bạn để vứt bỏ nó, điều bạn phải vứt bỏ chính là sự ngã chấp của mình”.
Rõ ràng, nhờ hiểu nhân quả mà hành giả sẽ biết đón nhận nghịch duyên với tâm không trách móc. Những câu chuyện đời thường, như chuyện đôi vợ chồng sửa máy nổ phát đạt rồi suy sụp và đổ lỗi lẫn nhau, được Thượng tọa dùng để minh họa rõ nét thói quen của chúng sinh: “Khi vui thì cùng hưởng, khi thất bại thì tránh né, đổ lỗi lẫn nhau”.
Thượng tọa khẳng định, nếu nhận sâu được lý nhân quả, hành giả sẽ hóa giải oán kết, sống với chánh biến tri, và từ đó sanh tâm hoan hỷ ngay khi phải đối diện nghịch cảnh.
.jpg)
2. Tùy Duyên Hạnh – Thuận theo duyên mà không trái chánh pháp
Dẫn lời kinh Pháp Hoa: “Nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, trước sau rốt ráo như vậy”, Thượng tọa chỉ rõ, mọi pháp đều vận hành theo nhân duyên, nhưng con người thường bất hòa vì cho rằng mình đúng, người khác sai.
Thượng tọa kể các câu chuyện trong Trang Tử để minh họa sự vận hành của duyên, như việc cây cong được chọn làm nhà vì bền, cây thẳng bị bỏ vì mau mục. Hay, con chim không biết gáy bị bắt để làm thịt, chim biết gáy được giữ lại để nghe. Ngài đệ tử của Trang Tử từng kết luận: “Giỏi quá cũng chết, dở quá cũng chết”. Qua đó, Trang Tử dạy, muốn sống an ổn phải biết khi thì như rồng bay lên, khi thì như rắn ẩn mình. Đó cũng chính là sự tùy duyên.
“Theo tinh thần đạo Phật, nếu sống thuận duyên mà không chấp trước, tâm thức sẽ nhẹ nhàng, không sanh phiền não, nhờ đó mà hành giả có thể hóa độ người khác một cách tự nhiên”, Thượng tọa nhận định.
3. Vô Sở Cầu Hạnh – Không mong cầu, không dựa nương, chỉ trở về tự tâm
Thượng tọa nêu rõ: “Người phàm phu thường cầu mong những việc cầu cho được, cầu cho đúng ý mình. Song, tinh thần của Bồ-tát đạo là vô sở cầu. Tâm mong cầu chính là gốc của thất vọng và khổ não”.
Thượng tọa chỉ ra sự lạm dụng trong việc hiểu và hành Tịnh Độ, có người khẳng định người chết được vãng sanh chỉ vì cơ thể mềm mại sau vài giờ, trong khi đó chỉ là hiện tượng sinh học tự nhiên. Việc gắn nhãn “vãng sanh” trong mọi trường hợp là tâm cầu mong quá mức, không đúng với chánh pháp.
Thượng tọa sách tấn: “Tinh thần vô sở cầu là biết rằng mọi pháp là duyên hợp, người tu chỉ cần trở về bản tâm thanh tịnh, không bám víu vào cảnh, không mong cầu bên ngoài”.
.jpg)
4. Xứng Pháp Hạnh – Hành đúng pháp, đúng căn cơ, đúng duyên của mình
Thượng tọa giảng giải, “xứng pháp” nghĩa là tương ưng. Người tu phải biết pháp môn phù hợp với căn duyên của mình, đồng thời, bậc Thầy phải trao pháp đúng với căn cơ của đệ tử.
Thượng tọa kể câu chuyện trong Kinh Di Đà Sớ Sao: “Ngài Hoàng Tán có hai đệ tử, một chuyên thiền, một chuyên niệm Phật, nhưng Ngài đã trao lộn pháp cho họ. Hậu quả là cả hai đều không thành tựu. Điều này cho thấy nếu pháp không đúng người, hành trì sẽ không yên định và không đạt kết quả”.
Từ bốn đại hạnh của Bồ-tát, TT. Giác Phương đối chiếu với hành trạng của Đức Tổ sư Minh Đăng Quang và khẳng định, Tổ sư đã thực hiện trọn vẹn bốn hạnh một cách viên mãn. Cụ thể, với hạnh thứ nhất (Báo Oán Hạnh), Tổ sư biết rõ duyên nợ quá khứ, biết mình sẽ thọ nạn, nhưng vẫn an nhiên đi vào con đường ấy như một sự trả nợ đúng với nhân quả. Đây là tinh thần của bậc đại sĩ.
.jpg)
Ở hạnh thứ hai (Tùy Duyên Hạnh), trong biến cố năm 1954 khiến Tổ vắng bóng, Tổ sư đã không lẩn tránh nghịch duyên, dù Ngài biết sự hy sinh của mình là điều khó tránh. Nhờ sự chấp nhận và tùy duyên ấy, Tăng đoàn có cơ hội được bảo toàn và phát triển thành nhiều đoàn Khất sĩ cho đến sau này.
Ở hạnh thứ ba (Vô Sở Cầu Hạnh), Tổ sư dạy không cầu bên ngoài, không nương tựa hình thức, chỉ cần trở về tự tâm sáng suốt, qua lời dạy “thờ chính bản tâm”. Mọi điều bên ngoài chỉ là trợ duyên cho đường tu.
Đối với hạnh cuối cùng (Xứng Pháp Hạnh), Tổ sư chọn pháp thiền định, nhờ đó Ngài chứng ngộ, viết nên Thuyền Trí Huệ. Đây chính là minh chứng xứng pháp, tức chọn đúng pháp, tu đúng pháp và thành tựu đúng pháp. Tại lễ kỷ niệm 105 năm ngày sinh của Tổ sư (2023), các học giả đánh giá, Tổ sư là người “phi thường”. TT. Giác Phương giải thích, phi thường tức đã vượt ngoài tầm phàm phu, là bậc thánh A-la-hán.
Kết thúc thời pháp, TT. Giác Phương khiêm nhường mời chư Tôn đức chỉ dạy thêm. Nhưng đối với đại chúng, những chia sẻ của Thượng tọa đã mở ra một con đường thực tiễn, lấy Tứ đại Hạnh làm kim chỉ nam, lấy gương Tổ sư làm tấm gương soi chiếu và lấy tinh thần Khất sĩ làm đạo lộ để trở về với bản tâm thanh tịnh.
.jpg)