Hiếu đạo

Trong Kinh Tăng Chi Bộ, Đức Thế Tôn đã dạy: “Có hai hạng người này, này các Tỷ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai? Người thi ân trước và người biết nhớ ơn đã làm. Hai hạng  người này, này các Tỷ-kheo, khó gặp được ở đời”. Thật vậy, tri ân và báo ân là một trong những thước đo phẩm chất của một người. Điều đó cũng làm nổi bật lên chữ hiếu đã gắn liền với truyền thống dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa.

Ở thế gian “hiếu” được hiểu là đền đáp công ơn sanh dưỡng của cha mẹ. Những hiếu tử ở đời luôn biết cố gắng phấn đấu thành công nhanh hơn tốc độ già đi của cha mẹ. Vậy với những người con đang bơi ngược dòng đời, quyết chí bước lên một bậc cao hơn trên hành trình tiến hoá thì báo đáp công ơn tựa như biển trời của hai đấng sanh thành như thế nào? Có hai cách báo hiếu như sau:

1. Hiếu nghĩa - hiếu dưỡng phàm thân cha mẹ

“Nắng mưa từ những ngày xưa,
Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan”.

Cuộc đời cha mẹ vì con mà chịu vất vả trăm bề, đặc biệt là người mẹ phải trải qua những tháng ngày gian nan “ba năm nhủ bộ, chín tháng cưu mang” dưỡng nuôi trẻ thơ đến ngày thành tài. Để đánh đổi một tương lai tốt nhất dành cho con mà biết bao cha mẹ đã phải dành cả tuổi thanh xuân tất tả gió mưa, chịu bao khó nhọc cay đắng để rồi đánh mất sức khỏe và có khi còn đánh rơi những ước mơ tuổi trẻ. Vậy nên, phụng dưỡng song thân cũng chính là bổn phận của người hiếu tử.

2. Hiếu đạo - hiếu của bậc xuất gia chủ yếu là giúp cha mẹ thoát khỏi biển khổ luân hồi

Trong Kinh Tăng Chi Bộ I, chương 2, phẩm Tâm thăng bằng, phần Đất, Đức Thế Tôn đã dạy rằng: “Có hai hạng người, này các Tỷ-kheo, ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai? Mẹ và cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, này các Tỷ-kheo, nếu một bên vai cõng cha, làm vậy suốt trăm năm, cho đến trăm tuổi; nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội và dầu tại đấy, dù mẹ cha có vãi tiểu tiện đại tiện, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Hơn nữa, này các Tỷ-kheo, nếu có an trí cha mẹ vào quốc độ với tối thượng uy lực, trên quả đất lớn với bảy báu này, như vậy, này các Tỷ- kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, cha mẹ đã làm nhiều cho con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng chúng lớn, giới thiệu chúng vào đời này.

Nhưng này các Tỷ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn an trú các vị ấy vào lòng tin; đối với mẹ cha theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào thiện giới; đối với mẹ cha xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào bố thí; đối với mẹ cha theo ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha”.

Dù cho lo lắng và hiếu dưỡng cha mẹ thế nào đi nữa, thậm chí “an trí cha mẹ vào quốc độ với tối thượng uy lực, trên quả đất lớn với bảy báu này” thì cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha theo lời Đức Phật đã dạy. Bởi lẽ, thân thể do tứ đại hợp thành, có sanh rồi có diệt nên việc báo đáp “chữ hiếu” không thể chỉ gói gọn trong hình hài mấy mươi năm. Huống gì, điều mà cha mẹ cho con không chỉ là cái thân phàm tục này, mà nó còn là một vườn tâm cha mẹ ngày đêm nuôi dưỡng. Nếu chỉ chăm lo, hướng đến phụng dưỡng xác thân cha mẹ thì liệu nó có quá “sòng phẳng” hay không?

Vậy nên, báo đáp công ơn sanh dưỡng tựa như biển trời của cha mẹ là biết cách an trú cha mẹ vào Tam bảo, có lòng tin bất động với Phật-Pháp-Tăng. Bên cạnh đó, với những ai có cha mẹ ưa thích làm những nghiệp ác thì hướng dẫn họ thực hành những pháp đối trị như: xan tham thì tập bố thí, ác trí huệ thì hướng đến trí tuệ... Bởi lẽ một khi sanh mạng mất đi, thần thức sẽ tiếp tục theo những nghiệp duyên đã tạo để đến những cảnh giới tiếp theo, cứ vậy mà trôi lăn mãi trong luân hồi. Biết được điều đó, người hiếu tử phải có con mắt tuệ cũng như nhiều phương tiện thiện xảo để hướng cha mẹ hồi quy Phật tánh bên trong tự thân.

Đến cả những bậc Thánh giả thời Đức Phật như các Ngài: Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất. Dẫu được tôn xưng là “bậc Tướng quân Chánh pháp” đi nữa, đến chặng cuối cuộc đời, Ngài vẫn chọn dừng chân bên cạnh quê nhà để hóa độ thân mẫu hướng tâm quy kính Tam bảo. Cho nên, chữ hiếu của bậc trí là biết lo nghĩ về nghiệp nhân - quả báo của cha mẹ để dẫn dắt song thân đi trên con đường hướng thiện, hướng thượng nhằm làm vơi bớt phần nào tội nghiệp và tích chút phước đức trên hành trình tiến hóa để tròn hiếu đạo.

Người xuất gia kể từ khi:

Tóc vừa cạo, tơ lòng đoạn phủi,
Cuốn sổ đời tên tuổi đã bôi
”.

Cũng là lúc:

Làm Tăng ôm bát, đắp y,
Vâng hành Pháp báu giữ trì giới nghiêm
”.

Đó là khi rời bỏ ngôi nhà thế tục để nhận Phật là cha, ân sư là mẹ, huynh đệ là anh em và đàn na tín thí là thân thuộc. Cha mẹ cho thân xác, nuôi lớn tâm hồn; còn chư Phật, Thầy Tổ khai mở cái linh, cái biết vốn có trong tự tánh mỗi người. Do đó, trên đôi vai còn nặng thêm trọng trách: Đáp đền ân chư Phật, ân Thầy Tổ. Đó chính là hiếu đạo của người tu học giải thoát.

“Hôm nay ta được vẻ vang,
Nhớ ơn Thầy Tổ gian nan bữa đầu”.

Và một tấm gương sáng trong Ni giới Khất sĩ nói riêng và Tăng Ni nói chung về báo đáp ân của chư Phật, Thầy Tổ, đất nước chính là Đệ nhất Ni trưởng, Trưởng Ni giới Hệ phái Khất sĩ. Ngày xuất gia theo Tổ, Đệ nhất Ni trưởng, lúc đó chỉ mới tuổi 24, đã phát thệ nguyện dõng mãnh: “Con nguyện làm con thuyền chở chuyên phái nữ”. Và cũng từ đó, Người đã hoàn thành những trọng trách lớn lao mà Tổ sư giao phó như lãnh đạo Ni đoàn và kiến lập các tịnh xá. Ngày Tổ vắng bóng, dù cho lòng đau đớn, não nề nhưng Người vẫn không quên tôn chỉ của Tổ sư là “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp”. Thế nên, Ni trưởng đã nén đau thương cùng quý Ni trưởng đương thời đồng lòng nắm tay nhau, truyền bá Chánh pháp đến những nơi chúng sanh còn đau khổ. Bởi lẽ, đó là cách khả dĩ báo đáp ơn cao dày tế độ của Thầy Tổ. Bên cạnh đó, Đệ nhất Ni trưởng vẫn luôn tâm niệm về chí nguyện xuất gia của mình nên mạnh mẽ dấn thân, tham gia cho các hoạt động phái nữ thời bấy giờ.

Học theo hạnh tri ân và báo ân của chư Phật, đàn hậu học biết rằng “Phục vụ chúng sanh là cúng dường chư Phật”. Tuy nhiên, muốn dấn thân vào cuộc đời đầy cam go, cạm bẫy đòi hỏi một nội lực thật mạnh. Cũng như một cái cây, tán lá có rộng, thân có chắc, cây muốn cao thì bộ rễ cần phải bám sâu vào lòng đất. Ngay cả muốn tế độ cha mẹ cũng đòi hỏi lực tu thật mạnh, quyết liệt. Bởi nếu người xuất gia còn mải vấn vương ngũ dục hồng trần thì có gì hơn để khuyên răn, hướng dẫn cha mẹ vốn cũng còn nhiều phiền não của người thế gian.

Đức Tổ sư đã dạy trong Bộ Chơn Lý – quyển Võ trụ quan: “Trau dồi thân khẩu ý lành tức là nuôi cây dưỡng hột, tạo cái ta, sanh ra cái biết, cái sống đời đời”. Thật vậy, tu tập suy cho cùng cũng là tu trên thân khẩu ý, sao cho tam nghiệp thanh tịnh. Do đó, việc tự mình phản tỉnh chính mình, quan sát lại những hành động (thân), lời nói (khẩu), suy nghĩ (ý) của bản thân trong đời sống hàng ngày là vô cùng quan trọng. Từ những thói quen được tích lũy đó, sẽ phản ánh lại những bất thiện tham, sân, si âm ỉ bên trong lúc như vũ bão cuồng phong, lúc dịu êm như hủ mật ngọt lành. Khi nhận diện được rồi thì lấy đó làm đề mục để sửa đổi.

Thế cho nên, việc hành Thiền là một trong những chìa khóa cốt lõi cho sự quán sát chính mình trên con đường tu tập. Khi tâm yên thì trí sẽ sáng. Vì chính sự định tĩnh, tỉnh giác mà Thiền đem lại sẽ giúp hành giả nhìn thấu được những diễn biến tâm để kịp thời ngăn chặn không cho tạo tác thêm cái ác và làm phát sanh những thiện nghiệp. Vậy nên, dù cho báo đáp công ơn sanh dưỡng của cha mẹ hay công ơn tế độ của chư Phật - Thầy Tổ để làm tròn chữ hiếu đạo thì người xuất gia đều nên thúc liễm từ trong chí ngoài trong mỗi lúc. Bởi vì, muốn độ được người thì trước hết phải tự độ được chính mình.

LIÊN THUẦN
(Trích Đuốc Sen số 35)