Sử thi Đức Thầy Giác An

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,

Kính bạch chư Hòa thượng, chư Thượng tọa chứng minh,

Kính bạch chư Tôn đức chứng minh,

Kính bạch đại chúng,

Con pháp danh: Liên Thơ, trú xứ tại tịnh xá Ngọc Đức, Lý Sơn, Quảng Ngãi.

Hôm nay có duyên được Thầy cho đi tham dự khóa tu bồi dưỡng đạo hạnh dành cho Sa-di, Sa-di-Ni và tập sự. Với tấm lòng nhiệt huyết, chúng con đã vân tập về tịnh xá Ngọc Lai. Mười ngày tu học trôi qua giờ cũng khép lại, để đền đáp công ơn của quý Ngài, con xin thành kính cúng dường lên chư Tôn đức Tăng Ni về tiểu sử Đức Thầy Giác An được chuyển thể từ văn vần sang thơ.

Người xưa có câu:

“Dân ta phải biết sử ta

Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”.

Quả thật vậy, phận làm trò phải biết tường tận về Thầy Tổ của mình, giúp cho chúng ta hiểu biết, ôn lại, khắc ghi và học theo gương hạnh của quý Ngài. Chính điều đó, đã thôi thúc chúng con cố gắng hoàn thành chí nguyện của mình. Và giờ đây, chúng con xin dâng lên quý Ngài chứng minh. Hẳn rằng, trong quá trình chuyển thể sẽ không sao tránh khỏi thiếu sót. Kính mong chư Tôn đức Tăng Ni cùng toàn thể đại chúng hoan hỷ.

5 TLGiacAn

THÂN THẾ

Từ ngàn xưa bao nhiêu đời Tổ

Đã truyền đạo, hóa độ chúng sanh

Giờ đây trên bước lữ hành

Tại tỉnh Sa Đéc khắc danh Đức Thầy

Làng Hòa Long duyên đầy đủ phước

Thiên cơ đã định trước nơi đây

Mùng sáu tháng sáu nhằm ngày

Trổ sanh con thảo, tên đây Văn Ngàn

Dòng họ Nguyễn vẻ vang chào đón

Mừng thai nhi hạ giới vuông tròn

Mọi người ai cũng hân hoan

Cụ ông Văn Diện có con giỏi truyền

Nguyễn Thị Hớn thân mẫu nhu hiền

Công dưỡng nuôi Ngài đến thành niên

Nhưng sau mười bảy năm liền

Mẹ Cha mất sớm, triền miên đau sầu

Ngài còn phải lo âu chu cấp

Nuôi em thơ tất bật sanh nhai

Nhân duyên số phận an bài

Đến hai lăm tuổi cho Ngài lập gia

Một thời gian khai hoa kết quả

Sanh hai trai, hai gái thật là

An vui hạnh phúc thuận hòa

Chưa được mấy chóc đã qua thời kì

Năm bốn bốn (1944) tức thì giặc giã

Chúng bóc lột, đập phá khắp nơi

Gia đình Ngài phải xa rời

Tìm nơi ẩn trốn cuộc đời đau thương

Năm bốn lăm (1945) vợ mất cảnh vô thường

Thân tâm đau đớn, cõi trần dương

Sau đó Ngài đã chủ trương

Lập nên chí nguyện trên đường thiện chơn.

NHÂN DUYÊN XUẤT GIA

Ngay lúc ấy lập ơn cứu thế

Độ nhân sanh đến vô số kể

Phận làm Thầy thuốc chẳng hề

Trọng sang khinh khổ mà chê bỏ người

Sống thanh thản không nài gian khổ

Chùa An Phú là chỗ dựa nương

Thiên cơ đã định con đường xuất gia

Ngay tại ấy Đạo Phật Thích Ca

Sẽ truyền bá lang ra mọi miền

Có cô Diệu Đức hữu duyên

Bỗng nhiên nằm mộng bậc Tiên giáng trần

Cưỡi bạch mã thân hình khoác áo

Đội mũ kim xưng báo quan tên

Thống Chế Cựu Tào ở trên

Nguyễn Công Liệu bảo xây nền cho ta

Đồng thời phải lập ra chùa tích

Để sau này có Đạo Thích Ca

Năm bốn chín (1949) Đức Tổ ghé qua

Ngồi lên ngôi mộ bảo là Thần đây

Trước kia làm chức quan này

Được tôi tuyển dùng giúp xây việc triều

Sau đó Ngài gọi và kêu

Bảo Văn Ngàn đến thảy điều xuất gia.

THỜI GIAN TU HỌC

Dòng thời gian trôi qua nhanh chóng

Ngọc Quang thì cũng đã xây xong

Được ân đức Tổ chứng lòng

Văn Ngàn đệ tử gắng công tu hành

Giác An là pháp danh Ngài đó

Năm bốn chín (1949) ký thọ xuất gia

Ba năm học đạo đã qua

Truyền trao Y Bát thật là phước duyên

Ngày Hai Chín tháng Giêng Tân Mão

Được Tổ Thầy truyền đạo Sa Di

Quyết tâm giữ giới hành trì

Đem nguồn giáo pháp từ bi vào đời

Hạnh Khất Sĩ khắp nơi tỏa sáng

Được Tăng đoàn tán thán ngợi ca

Quá trình Ngài đã trải qua

Giới hạnh đầy đủ, thật là trang nghiêm

Năm năm lăm (1955) trong niềm tưởng nhớ

Thọ Tỳ kheo rực rỡ pháp y

Ngày rằm tháng bảy khắc ghi

Giác An trưởng lão nguyện vì chúng sanh

Tại Ngọc Phước duyên lành đầy đủ

Tỉnh Cần Thơ hội tụ Tăng-già

Tám năm hạnh nguyện độ tha

Nơi vùng non nước tỉnh là miền Nam

Đường hành đạo thử phàm nhân Thánh

Biết bao nhiêu những cảnh tương tàn

Cuộc đời lắm những gian nan

Ngài luôn vững chí chẳng màng khổ đau

Tình Thầy trò ơn sâu nghĩa nặng

Chẳng lẽ nào chết lặng hay sao

Tổ Sư bị bắt đưa vào

Ngục tù tra khảo lòng nào chẳng thương

Cùng bảy Sư lên đường tìm kiếm

Nguyện hy sinh dâng hiến thân này

Tìm ra cho được bậc Thầy

Một lòng hiếu giữ, dù thây không còn

Nhưng sau đó hao mòn thân thể

Ba tháng dài trong bể tối tăm

Mà Ngài vẫn cứ dò thăm

Nguyện cầu Ngài sống tháng năm yên bình

Sau khi thoát ngục hình tội lỗi

Ngài lập trường tiếp nối độ sanh

Giúp cho thế giới an lành

Độ đưa tất cả chóng thành quả chơn.

CHÍNH THỨC LẬP GIÁO HỘI

Lòng quyết chí không sờn lùi bước

Đức Tổ Thầy luôn đươc noi gương

Khất sĩ nối tiếp con đường

Đem nguồn Giáo pháp vào trường thế gian

Trưởng lão Ngài Giác An vững tiến

Ra xứ Trung cống hiến pháp âm

Sau đó Ngài lại quang lâm

Tại nơi Phan Thiết huyền thâm trên đồi

Làng Thuyền động Ngài ngồi an trú

Ngắm bốn phương lãnh tụ sự đời

Từ bi rộng mở muôn nơi

Thâu nhận đệ tử đồng thời lập Tăng

Đường hành đạo khó khăn cam khổ

Quyết một lòng nguyện độ chúng sanh

Ngài đi khắp chốn thị thành

Miền Trung rải các pháp lành sĩ môn

Ngọc Cát Phan Thiết ôn trang sử

Đánh dấu bước chân lữ du tăng

Quá trình tu học giới răn

Bao nhiêu tịnh xá đã hằng mở khai

Nhưng sau đó Ngài đà dừng lại

Đất Nha Trang tồn tại chơn như

Ngọc Tòng tịnh xá thiên thư

Là nơi Trưởng lão Bổn sư khép mình

Năm sáu sáu (1966) xây dựng trên đất

Do Võ Phú lòng thật cúng dâng

Bá tánh hết sức tri ân

Vợ chồng hoan hỷ lãnh phần phước duyên

Nơi căn cứ mọi miền tựu hội

Đất Tổ đình một cội đồng tu

Hai mươi năm sống phiêu du

Dấu chân Khất sĩ thiên thu vẫn còn.

HẠNH NGUYỆN BỐ THÍ

Một hạnh nguyện vẹn tròn cao cả

Bậc đạo Sư xin xả báo thân

Ngài đã hiến máu bốn lần

Tại các huyết sở Trung tâm Ngân hàng

Tu bố thí chẳng màn danh lợi

Đem tiền tài để lại cho đời

Làm việc từ thiện khắp nơi

Cứu trợ lũ lụt giúp người thoát nguy

Những việc làm luôn vì sanh chúng

Hạnh từ bi bác ái khoan dung

Ngài được dân chúng tôn sùng

Bậc Thầy khả kính nghìn trùng vang danh

Giờ tuổi xanh cũng đành khép lại

Trên bảy mươi tóc mái điểm sương

Song cũng khỏe mạnh can trường

Tiếp tục tích cực con đường độ tha

Đại hội toàn quốc đã nêu ra

Chọn Ngài làm nhị phó Tăng già

Ngày mười tám tháng năm là

Nhằm năm Tân Hợi thật là không sai.

MƯỜI HAI LỜI NGUYỆN

Nguyện thứ nhất đem thân tứ đại

Xin cúng dường Đức Phật Như Lai

Nguyện hai tâm cũng chẳng nài

Cứu độ tất cả muôn loài chúng sanh

Nguyện thứ ba đem hết lòng thành

Để làm lợi ích rạng danh nước nhà

Kế là nguyện bốn không xa

Chẳng làm ai khổ sống mà an vui

Nguyện thứ năm xin làm cát bụi

Ai mà buồn xin phủi nhẹ bay

Thứ sáu nguyện cái thân này

Đồng hành pháp lữ hằng ngày tiến tu

Nguyện thứ bảy công phu tinh tấn

Đem thân này độ tận chúng sanh

Nguyện tám xin làm việc lành

Bao nhiêu ý ác chuyển thành thiện lương

Nguyện thứ chín tâm thường phát khởi

Phật chưa thành vì đời khổ đau

Nguyện mười rộng khắp năm châu

Khi chúng sanh hết, Phật sau sẽ thành

Nguyện mười một theo Phật du hành

Để đời đời, kiếp kiếp độ sanh

Mười hai dứt khỏi chiến tranh

Thế giới hòa bình, nhân sanh an lạc.

NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG

Đức Tổ Sư truyền đạo chánh giác

Hạnh Khất sĩ Y, Bát tùy thân

Hình bóng lưu lại cõi trần

Tiếng thơm vang dội, tinh thần thanh tao

Cuộc đời Ngài biết bao gian khổ

Lòng vị tha mãi độ chúng sanh

Dầu cho đến cuối phút lành

Quyết đem ánh đạo ban hành nơi nơi

Cơ mầu nhiệm Phật trời định sẵn

Sứ mạng tròn viên mãn đã xong

Giờ đây tứ chúng hội đồng

Kính dâng Thầy Tổ chứng lòng hỷ hoan

Cũng ngày ấy năm Đoàn đầy đủ

Ngài truyền trao, khuyên nhủ dạy răn

Bầu ban Trị sự chúng Tăng

Điều hành chỉ đạo lòng hằng khắc ghi

Ngài tiếp tục dạo đi khắp chỗ

Các tỉnh miền thành phố Nam Trung

Nơi nào đau khổ tột cùng

Ngài luôn hiện đến hải hùng tiêu tan

Năm Tân Hợi Vu lan đại lễ

Tại Ngọc Cát Ngài về chứng minh

Nơi đây phật pháp khởi sinh

Cũng nơi viên mãn hành trình hoằng dương.

DI CHÚC TỐI HẬU

Giờ Tự tứ cũng đương hoàn mãn

Trong phút giây tràn ngập thiêng liêng

Ân cần phó chúc diệu hiền

Giao ông Giác Phải chủ biên dẫn đoàn

Còn ông Lượng làm tròn phận sự

Cắt Tăng đi trú xứ các nơi

Hai ông lo thế cho Tôi

Để Tôi yên nghỉ cuộc đời về sau

Ngài nói xong vỗ đầu ba cái

Chỉ lên trời vĩ đại điềm nhiên

Không khí vô cùng lặng yên

Đức Ngài viên tịch về miền lạc bang

Lúc ba giờ rưỡi sáng mười sáu

Vào tháng bảy ấy sau Vu lan

Nhằm năm Tân Hợi rõ ràng

Kiết già an tọa hào quang sáng ngời

Theo di chúc y lời Thầy dạy

Linh cửu được rước ngày hai mươi

Nhằm tháng bảy năm Tân Hợi

Kim quan được rước về nơi Tổ đình

Bá tánh thập phương tín ngưỡng cầu

Trà tỳ được bắt đầu trọng thể

Vào chín giờ mười làm lễ

Một tiếng vang rền đẩm lệ tim con

Ba ngày sau giữ tròn đại lễ

Thỉnh xá lợi về để phượng thờ

Ngày sau hậu lai tưởng nhớ

Bậc tu chứng đắc, bây giờ khắc danh.

Nam Mô Bổn Sư Thích ca Mâu Ni Phật.