Thay lời tặng biệt

 

Học tu toàn hảo,

Đời đạo bất ly.

Đức tài không hạn,

Tụ tán không kỳ.

Duyên hàn mặc chung quy số định,

Bóng quang âm nhứt đán ngựa phi.

Bước vân du giới thọ bình trì,

thế sự há dừng chơn Khất Sĩ;

Thân Y Bát hạnh cao đức quý,

văn chương đành lưu gót chư Ni.

Cõi liên hoa luyện vận rèn thi,

nghề văn quyết đạt,

Lễ tự tứ cầu an nguyện cát,

luật đạo phải tuỳ.

Cảnh nước bèo ly hiệp hiệp ly,

lưu luyến hồn văn riêng bạch diện;

Nghề nghiên bút dị nan nan dị,

lững lờ nét mực chúng huỳnh y.

Ao sen hoa lệ,

Cõi thế tần ô.

Thi thơ gốc tục,

Đàm huệ cội Bồ.

Sẵn duyên tốt, lộ đồ mới quen học giả,

Chẳng căn lành, Tịnh xá sao hội Ni cô.

Gương tịnh đế sởn sơ, chẳng nhiễm bùn nhơ,

hương sắc bày phô,

vẻ huyền diệu phất phơ gió pháp;

Dạ liên đài cổ cập, không sờn bão táp,

cảnh tình hỗn tạp,

tấm nhiệt thành thâu nạp nhà thơ.

Sở kiến mịt mờ, kinh nghiệm thô sơ,

nghề nghiên bút hồ đồ cốc rác;

Đức tài hèn bạc, văn chương chất phát,

nghiệp thi thơ mộc mạc ngây ngô.

Thành sự tình cờ, bồ đề hạnh, tánh cơ gia,

lòng những thiết tha cùng tiếng mẹ;

Niệm tình văn vẻ, ngộ lý chuyên nguyền Khất Sĩ,

chí tâm hoan hỷ giúp Sư cô.

Nên mực chí thành,

Vị tình lân khất.

Nghĩa bất cao danh,

Tu đành biến luật.

Lợi khí nào cần nhất, nếu không phải là văn?

Giáo pháp nào tối chân, nếu không phải là Phật?

Không có lý Bồ Đề, Bồ Tát,

văn chương ấy quả thị hư văn;

Phải nhờ văn minh trí minh đăng,

chơn lý ấy mới rằng chơn thật.

Văn mà không luyện cho tinh cho sắc,

văn ấy thật là văn chướng,

há phải văn chương;

Văn mà có luyện cho thấu cho tường,

văn ấy chính là văn chương?

chính là văn vật.

Văn đem hoằng khai đạo đức,

văn khai hoá mới phải văn minh;

Đạo không tiếp xúc chúng sanh,

đạo ám muội làm sao đạo đạt?

Có công có đức có chất có văn,

Phải giới phải răn phải tầng phải nấc.

Tu một mình đâu thông ba bậc,

chưa biết tu xuống tu lên!

Học một kiếp đâu suốt năm kinh,

vẫn còn học quanh học quất.

Tu chốn đầu non chất ngất, quả phúc cũng mòn;

Học trong lá mít cỏn con, điểm son hoá hoắc.

Chữ “Ngọc bất trác” lòng nọ còn ghi;

Câu “Chúc cầu minh” sách kia còn nhắc.

Học sao kịp Thần Siêu Thánh Quát,

học không tự giác,

học vô căn học ắt ra ma;

Tu sao thành Bồ Tát Di Đà?

tu chẳng giác tha,

tu ố đạo tu là phi Phật.

Nọ Tứ Diệu Đế,

Kìa Ba La Mật.

Công đức chưa tuyền,

Căn duyên còn mất.

Trí dậy lục tam,

Tâm mang lục thất.

Tu đâu thành đạt, tu đường chánh giác,

mựa đừng tu vất vưởng vất vơ;

Học tốt văn thơ, học pháp huyền cơ,

không phải học tầm phơ tầm phất.

Cần tu cần học, tu cho tánh thiện, lòng chai,

Có học có hay, học để tâm khai, huệ phát.

Biển giác mênh mông,

Rừng tòng bát ngát.

Hoa bác ái diệu mầu nhan sắc,

học ắt thêm hương;

Bút từ bi điêu luyện tinh tường,

tu càng chóng chắc.

Đời phải lắm biến thường,

Đạo dầu nhiều giới luật.

Đạo từ Tây Trúc,

bước du hành trải mấy độ tang thương!

Kinh gốc Tây Phương,

lời phiên dịch qua mấy lần sơ thất!

Không cho dời dạt,

luận là giáo lý chơn thường.

Có thể sửa đương,

luật là phương châm bất thất.

Đã có chữ: “Nhập giang tuỳ khúc”

luật phải tuỳ duyên;

Há không nghe: “Ngộ cảnh tùng quyền”

giới cần từng bậc.

Rằng tu cho giáo pháp minh xương,

Thì học phải văn chương thông đạt.

Phương chi học độ sanh hộ pháp,

học cớ sao làm ố làm tì?

Nỡ nào gieo tiếng bấc giọng chì,

gieo chuyện khó làm cay làm ngặt.

Nẻo chánh cứ đi,

Lời tà phó mặc.

Sư trưởng cô nhi,

Đồng bằng đồng bậc.

Cội Bồ Đề nương bóng từ bi,

Gốc Tịnh xá tập nghề hàn mặc.

Cảm vì đức, trọng vì tài,

Quản chi giờ, kể chi giấc.

Bài diễn giải tận tâm tận lực,

suốt tháng cuối tuần;

Thi tập tành phân nhịp gieo vần,

thâu canh mãn nhật.

Lời đảo ngữ thuận trang chỉ tất,

luật chuyển ngược xuôi;

Giọng bổng trầm khứ nhập hiểu trôi,

tứ thanh bình trắc.

Tứ ngũ cùng lục thất,

mọi thể văn cân nhắc thuyết trình;

Văn đối với nhịp thanh,

các yếu tố thông minh thủ đắc.

Tuần hai buổi kéo phăng gút mắc,

tằm trả ơn dâu;

Đêm thâu canh thức cạn đèn dầu,

sen gầy chất mật.

Tiếng trầm bổng cốc khuya xếp đặt,

thương những ai nát óc đuối hơi;

Bài dở hay giường vắng giũa mài,

xót một kẻ mỏi tay loà mắt.

Chỗ bí yếu tâm truyền tâm đắc,

trau tấc pháp tung hoành;

Đức kiên trì chí quyết, chí thành,

thân trọn nghề bút mặc.

Một hạ tu văn,

Ba trăng xuất sĩ.

Văn chương tế nhị,

Giáo lý tinh tường.

Đạo minh quang bút thép tuyên truyền,

Đường phổ độ gót sen trực chỉ.

Tu sao cho lợi tha xả kỷ,

tu cho giáo pháp đại đồng;

Hành sao cho kết trái thành công,

hành cho văn chương chánh khí.

Hứng võ lộ rửa thanh bụi thế,

bút hoa sen mài thép cho ngời;

Lướt phong ba chèo vượt biển đời,

con thuyền giác cứu người khỏi luỵ.

Cây bút mực đề cao diệu lý,

lý thêm mầu, thêm tinh tuý kinh văn;

Nhờ đức tài điêu luyện chánh văn,

văn càng tuyệt, càng khai hoằng chơn lý.

Thôi!

Một nén hương nguyền

Mấy hàng bút ký,

Cõi đạo tràng trở lại chơn không,

Miền văn uyển còn nồng hương vị.

Chuông Bát Nhã sớm giục người Khất sĩ,

ai nghe thỏ thẻ can trường?

Hoa Ưu Đàm chưa lộ vẻ thiên hương,

ai thấy phô trương tâm chí?

Đường phổ độ vân du thiên lý,

mịt mù thôi gió quyện huỳnh y!

Nẻo từ tâm duyên hiệp nhứt thì,

lạnh lạc bấy thi đề bạch chỉ!

Sài Gòn ngày 17.08.1956

12.7 năm Bính Thân