Thi hóa tiểu sử cố NT. Trí Liên

LỜI  GIAO CẢM

Trên mặt biển khổ mênh mông của trần thế, thỉnh thoảng đó đây nhô lên những cành liên hoa rực rỡ, những cành hoa đượm đầy ý thanh cao và giải thoát, tô điểm cho biển đời cho bớt vẻ bi thương và cho nhân thế có chỗ tựa nương trong những phút lắng lòng.

Thì đây!

Ni trưởng Trí Liên một trong những cành liên hoa của giáo đoàn Ni giới Khất sĩ, môn đệ của đức Tổ sư  Minh Đăng Quang - một vị Thầy hiền khả kính, sau khi đã tròn xong phận sự trong giai đoạn gọi là đời, đã dâng hiến quãng đời còn lại, 36 năm cho ánh đạo thiêng mầu nhiệm.

Vì hạnh nguyện độ sanh, Thầy đã không quản ngại nắng mưa sương gió, bước chân dạo khắp, đem hạnh hiền tế độ quần sanh.

Cây có cội, nước có nguồn; thì hạnh hiền của Thầy ban cho chúng sanh cũng bắt nguồn từ một vùng đất quê hương và ánh đuốc tuệ cũng được nối truyền từ ngọn đuốc Minh Quang rực rỡ.

Đây là những vần thơ mọn, lược lại quá trình từ khi Thầy hiện diện với cuộc đời, đến lúc trở về với hư vô vạn hữu. Giờ đây chúng ta hãy cùng nhau tìm lại suối nguồn.

LƯỢC SỬ NI TRƯỞNG THÍCH NỮ TRÍ LIÊN

Kính lạy Phật nguồn ân cao cả

Khai đạo mầu truyền bá nhân gian

Hữu duyên nương ánh Từ quang

Hương lòng thành kính cúng dường Thế Tôn.

***

Phật tịch diệt hai ngàn năm rưỡi

Tổ, Tổ truyền đến buổi hôm nay

Minh Đăng giáo chủ đức Ngài

Ra đời nối nguyện mở khai đạo tràng

Gióng chuông pháp rền vang cảnh tỉnh

Dong thuyền từ các tỉnh miền Nam

Khêu cao đuốc huệ hoa đàm

Nối truyền chánh pháp siêu phàm ngàn xưa

Nhưng ánh đạo mới vừa tỏ rạng

Đức Tổ sư lâm nạn bất ngờ

Bóng tăm biền biệt đến giờ

Tăng Ni đệ tử giờ giờ ngóng trông

Tiếp chí nguyện nối dòng Phật chủng

Thầy phát nguyền độ chúng thoát mê

Chúng con nương cội bồ-đề

Được Thầy chỉ dẫn lối về đường chơn

Chí Thầy vững keo sơn tạc dạ

Y pháp môn giáo hoá ban truyền

Các con nương Bát-nhã thuyền

Nhuần ân pháp nhủ Thầy hiền ban cho

Nay kính cẩn con trò đảnh lễ

Lịch sử Thầy con kể sơ qua

Lời quê mộc mạc thật thà

Chỉ mong huynh đệ xem qua lãm  tường

Con nào dám chuyện phô trương

Văn hèn ý vụng chép trương sử mầu

***

Tỉnh Long An miền Nam nước Việt

Mỹ Lạc thôn ẩn hiện ven sông

Có nhà họ Nguyễn gia trung

Tu nhơn tích đức cũng dòng thư hương

Cụ ông Nguyễn Văn Tùng tên gọi

Cụ bà Trần Thị Lựu nhu hiền

Âu là nhiều kiếp nhân duyên

Trổ sanh con quý gái hiền nết na

Người chào đời tháng ba mùng sáu

Tây lịch đầu thế kỷ hai mươi

Tân Sửu niên tiết xuân tươi

Ngọc Mai vốn thiệt tên người nữ nhi

Thời gian qua xuân đi hạ đến

Tuổi nhỏ mà lòng mến đường ngay

Theo phụ thân giữ thập trai

Quy y giữ giới thảo ngay hiếu hiền

Được Hòa thượng trao truyền quy giới

Thầy Tâm Hoà thọ ký pháp danh

Diệu Ngộ pháp hiệu đành rành

Ngộ rồi diệu lý, lòng thành kỉnh tôn

Phận nhi nữ khuê môn bất xuất

Lo giồi trau tứ đức tam tùng

Bể trần sóng bủa muôn trùng

Nghiệp trần cam trả vướng vòng phu thê

Tuổi đôi chín yên bề gia thất

Khưu Văn Xuân vốn thật tên người

Đức hiền anh tuấn tốt tươi

Phụng loan hòa hiệp cùng người sánh duyên

Hai chín năm vợ hiền dâu thảo

Người chăm lo trọn đạo tam tùng

Nhơn duyên nhiều kíếp tao phùng

Ba trai, ba gái nối dòng Khưu gia

Trải bao độ ác tà thỏ lặn

Lòng người còn mang nặng hiếu ân

Song thân lần lượt ly trần

Đường trần từ đó có phần ngán ngao

Giờ rỗi rảnh tầm vào cửa Phật

Tìm học điều chân thật căn nguyên

Từ xưa bao kiếp nhân duyên

Đến năm bốn bảy chiếc thuyền du Tăng

Đức Tổ sư Minh Đăng hoằng hoá

Về tỉnh nhà thuyết pháp độ sanh

Tứ y chánh pháp giải rành

Lòng người hâm mộ pháp hành cao thâm

Về tư gia lòng hằng mến mộ

Khuyến chị em bằng hữu phát tâm

Lập nên một chốn am tranh

Hiệu đề Tân Bửu lòng thành kính dâng

Thỉnh Tổ sư tạm nương giáo hoá

Để thế trần có chỗ gieo nhân

Pháp mầu ngày một thấm nhuần

Lòng người chí quyết theo chân đức Thầy

Duyên đã đến chuyển xoay cũng lạ

Người bạn đời sẵn dạ bao dung

“Giã người ở lại gia trung

Chí tôi đã quyết bụi hồng lánh xa”.

“Con thơ dại nhờ cha bảo bọc

Giã từ con gắng học nên người”.

Cỏ cây cũng phải ngậm ngùi

Trước giờ ly biệt, nhưng người chẳng nao

Thuyền giáo hội vui chào đón rước

Khách trần ai nhẹ bước lên thuyền

Tổ sư ban hiệu Trí Liên

Trí không ô nhiễm, sen thiêng nhiệm mầu

Giới luật nghi buổi đầu được thọ

Hạnh bát y từ đó du hành

Khắp nơi gieo hạt giống lành

Hoa từ rộ nở thêm xinh cõi đời

Vui hạnh nguyện đầy vơi chẳng nản

Trải nắng mưa chẳng quản ngại gì

Bền lòng hai chữ từ bi

Xót thương sanh chúng nệ chi nhọc nhằn

Tuy du hoá lòng hằng ước nguyện

Chốn non cao tịnh luyện đạo mầu

Y như ước nguyện mong cầu

Tây Ninh thánh địa duyên sâu thuở nào

Non chớn chở vui chào đón rước

Gót lữ hành dừng bước nơi đây

Y vàng phất phới am mây

Thầy ban mảnh đất đắp xây đạo tràng

Trải mấy độ xuân tàn thu đến

Lòng sư ni vẫn mến non xanh

Nhưng kìa vạn loại chúng sanh

Còn đang đắm đuối nguyện lành chưa xong

Thầy trở gót về cùng sanh chúng

Quận Bến Tranh đã đúng cơ duyên

Dừng chân chốn ấy đầu tiên

Khêu cao đuốc huệ chơn truyền Minh Quang

Chốn phúc địa đạo tràng thành lập

Ngôi đầu tiên xây đắp móng nền

Tịnh xá Ngọc Hiệp dựng lên

Làm nơi an trụ hoá duyên độ đời

Thuyền Bát-nhã trùng khơi lướt sóng

Chốn mê tân lố bóng huỳnh y

Khêu đuốc huệ tỏ đường đi

Cho người lạc lối hồi qui trở về

Tâm phát nguyện bồ-đề kiên cố

Đâu ngại điều sướng khổ thế gian

Đường tu thử thách gian nan

Bền gan chịu đựng lòng vàng dễ nao

Buổi đầu tiên gian lao hành đạo

Ba thầy trò nương náo am tranh

Từ một cội nảy nhiều nhành

Xum xuê cành lá chúng sanh nương nhờ

Đoàn hậu tấn mong nhờ đức cả

Lòng từ bi Thầy há dễ quên

Đạo tràng tiếp tục dựng lên

Chư Ni nương bóng lập nên phân đoàn

Thân tứ đại suy tàn theo tuổi

Chí nguyện lành như buổi đầu tiên

Nơi nào đúng hạp cơ duyên

Thuyền Từ xông lướt chẳng phiền khó khăn

Tuổi càng lớn bệnh căn thôi thúc

Sức khoẻ Thầy càng lúc càng mòn

Nhưng Thầy cố gắng luôn luôn

Nêu gương tinh tấn cho hàng môn nhân

Lời chỉ dạy cân phân cặn kẽ:

“Giới luật là Thầy đó con ơi !

Muốn tu thì chớ buông lơi

Cột kềm thân khẩu chớ rời ý căn

Thân khẩu ý thường năng thu thúc

Chớ nhiễm ô ngũ dục thất tình

Thường năng thiền định tâm minh

Tâm minh huệ sáng quả linh hiện tiền”

Bao lời lẽ Thầy hiền nhắc nhở

Cho các con trí mở tâm khai

Thắng duyên công đức cao dày

Tấm gương sáng chói lưu lai thế trần.

KẾT LUẬN

Tám bốn năm một đời hiền

Thầy cho sanh chúng tình thiêng đạo từ

Ba sáu năm lẻ có dư

Hoá nguồn suối mát hạnh từ hoằng khai

Pháp thân bỗng hoá liên đài

Nhục thân bỗng hoá khói mây diệu huyền

Trở về bản thể chơn nguyên

Còn lưu dấu vết nơi miền trần ai

Sen vàng đoá đoá nở khai

Đạo tràng chốn chốn hiện bày độ sanh

Viên mãn !

Một cuộc đời siêu  thoát.

Một ánh đạo nhiệm mầu.