Một góc nhìn về lòng báo hiếu

Mùa Vu Lan lại về, mùa nhớ ơn, biết ơn của những người con đối với các đấng sanh thành. Điều đó làm chúng ta nhớ lại những bài học thuộc lòng thuở còn ngồi dưới mái học đường.

Nhờ ai ta lớn ta khôn
Ai yêu ai ấp ai bồng ai mang
Ai thương như ngọc như vàng
Ai nâng như trứng trên bàn lắc léo
Khi đau ai lặng ai trèo
Khi đi khi đứng ai theo dắt lần
Đêm khuya ai lại ngồi gần
Ai lo săn sóc ân cần đến ta
Người kia ấy Mẹ ấy Cha.

Một bài thơ tràn đầy cảm xúc, bày tỏ lòng thương kính Mẹ Cha. Tháng bảy Vu Lan, truyền thống của những người con Phật, được chư Tôn đức Tăng Ni từ các đạo tràng Tam Bảo mở pháp hội Vu Lan, tụng Kinh Vu Lan Bồn, Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu Trọng Ân, phát huy giáo pháp Phật đà để nhắc nhở những người con Phật trở về với tâm hiếu. Tâm ấy chính là tâm Phật, hạnh ấy chính là hạnh Phật, đó cũng là nét đẹp của truyền thống văn hóa đạo đức Đông Phương.

Bởi lẽ những lời kinh ấy đã đánh động vào tâm thức chúng ta về sự mang nặng đẻ đau của Mẹ, sự vất vả, nhọc nhằn nuôi con khôn lớn thành người của Cha và dìu dắt đưa dẫn con vào đời đến khi con được công thành danh toại. Nói đến đây khiến tôi chợt nhớ đến hai câu thơ mô tả về ơn cha nghĩa mẹ:

Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục
Mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao.

Thật hạnh phúc biết bao khi chúng ta được Đức Phật dạy cho bài Kinh Vu Lan, giúp chúng ta biết cách báo đáp ân đức sanh thành dưỡng dục của Mẹ Cha từ cạn tới sâu, từ thấp tới cao. Theo lời Phật dạy có ba cách báo hiếu, đó là Tiểu hiếu, Trung hiếu và Đại hiếu.

Cũng như truyền thống hiếu đạo của Khổng Tử là quạt nồng ấp lạnh, lo cho Cha Mẹ về phương diện vật chất, ăn, mặc, ở, bệnh. Ngoài ra người con còn phải biết giữ gìn đạo lý làm người, biết lo gầy dựng sự nghiệp cho rạng rỡ Tông đường, nếp sống đạo lý đó tạo nên một xã hội tốt đẹp, thuần phong mỹ tục, đó là bước đầu của đạo hiếu mà đạo Phật gọi là Tiểu hiếu.

Bước hiếu thứ hai là Trung hiếu: Với tuệ giác của Đức Phật, hướng dẫn cho chúng ta sự báo hiếu cao hơn, để trở thành người con chí hiếu, đó là ngoài sự phụng dưỡng Cha Mẹ về vật chất, chúng ta còn phải báo hiếu cho Cha Mẹ về phương diện tâm linh, đó là tạo điều kiện cho cha mẹ tích tạo phước đức và tu tập trí tuệ.

Trong Kinh Nikaya Đức Phật đã dạy: “Nguồn sanh phước từ sự quy y Tam Bảo và sự giữ giới”[1]. Chính sự giữ giới để tránh ác làm lành sống theo thiện nghiệp làm cho phước đức tăng trưởng, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ được sanh về cảnh giới tốt đẹp an vui, đó là lo cho Cha Mẹ đời này và cả đời sau. Đây mới thật là sự báo hiếu của người con có trí tuệ do nhờ thấm nhuần Phật pháp. Điều này trong quyển Phát Bồ Đề Tâm Văn cũng nói rõ: “Không biết lễ nghĩa khác gì cầm thú, không tin Phật pháp tương đồng người phàm”[2]. Đúng vậy, nếu không đến với Phật pháp chúng ta làm sao biết cách báo hiếu thế này, đây là bước đầu của Trung hiếu.

Thứ đến, chúng ta còn phải phát huy tạo điều tối thắng hơn nữa của Trung hiếu, tức tạo điều kiện cho Cha Mẹ thân cận Tam Bảo, học nghe Diệu pháp để có trí tuệ thấy rõ pháp sanh diệt của thế gian, để không bám víu, chấp đắm vào thế gian, được thoát ly sanh tử dự vào dòng Thánh. Đây là sự báo hiếu khó làm nhất, nhưng cũng chính nhờ cách báo đáp này mới là sự báo hiếu rốt ráo nhất của người con đã thật sự thấm nhuần giáo pháp của Đức Thế Tôn đối với Cha Mẹ hiện đời.

Bước hiếu thứ ba là Đại hiếu: Với tuệ giác siêu việt của bậc Giác ngộ đã mở rộng tầm nhìn về đạo hiếu. Đức Phật đã từng tuyên bố, chúng ta không phải chỉ có một Cha và một Mẹ hiện đời, mà chúng ta còn có Cha Mẹ của nhiều đời. Vì trải qua vô lượng kiếp sinh thân, mỗi lần sinh thân như vậy chúng ta lại có cha mẹ khác, như trong Kinh Phạm Võng nói: “Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta, mỗi đời ta từ đó mà sanh ra nên chúng sanh trong sáu đường là cha mẹ của ta cả” [3].

Hay khi chứng được túc mạng thông, vị ấy thấy được sự sinh tử của mình trong một đời, hai đời cho đến trăm nghìn đời, nhiều thành kiếp, nhiều hoại kiếp, sinh ra ở đâu, cha mẹ là ai, như vậy là chúng ta trải qua vô lượng kiếp sinh thân và có vô lượng Cha Mẹ.

Do vậy, qua triết lý Kinh Vu Lan Bồn, trong Chơn Lý Đại Thái Thức của Đức Tổ sư, Ngài Mục Kiền Liên tìm Mẹ và thấy Mẹ. Đó là tất cả chúng sanh chớ không phải một bà Thanh Đề, bà Thanh Đề là chỉ cho tất cả chúng sanh. Thế nên Tổ sư đã trình bày hàm ý của Đức Phật qua lời dạy sau: “… những chúng sanh tội lỗi cha mẹ kia, là những cửu huyền thất tổ lớp trên, hay con cháu lớp dưới, kẻ trước người sau, hằng sanh lẫn lộn nơi chung quanh, kẻ sống người chết, kẻ ác người thiện, thảy đặng gội nhuần mưa pháp, toại hưởng pháp thực, tiến hóa lên cao cả thảy. Đó là cách báo hiếu của chư Bồ Tát, lập thân hành đạo, để đạo đức mãi chung lại cho đời sau” [4]. Thật vậy, báo hiếu của Ngài Mục Kiền Liên trong Kinh Vu Lan Bồn là cứu độ tất cả chúng sanh, chẳng phải chỉ người mẹ trong hiện đời. Chính vì vậy, Bồ tát Mục Kiền Liên và tất cả những chúng sanh trí thức sau này trong pháp hội Vu Lan của mỗi năm, sau khi trang bị cho mình một thánh tâm trong sạch, đều vâng theo lời Phật dạy đi khắp nơi giáo hóa cứu giúp chúng sanh thoát khổ mê lầm. Như lời Tổ sư đã truyền dạy: “… sau đó Ngài Đại Thái Thức y Phật dạy hành theo, khiến nên xứ Ấn Độ chẳng bao lâu, chúng sanh đều được giác ngộ yên vui, biết tu hành nương theo pháp Phật, trong tâm no đủ khoái lạc, cao ráo, nhẹ nhàng, người người trong sạch thơm tho, tâm hồn như mập trắng đẹp tròn không còn phải là xứ của ma đói xấu xa dơ tệ nữa” [5].

Lại nữa, trong Kinh Vu Lan Bồn, đức Phật dạy Ngài Mục Kiền Liên báo hiếu cho Mẹ bằng cách cúng dường chúng Tăng trong ngày Tự Tứ với thức ăn trăm món trái cây năm màu. Nghĩa là Ngài Mục Kiền Liên hay những bậc đại Trí huệ phải thuyết pháp cho chư Tăng trong ngày Tự Tứ, để họ chứng đắc được năm thánh quả: Nhập lưu, Nhất lai, Bất lai, Vô sanh A La Hán và Bồ tát và hàng trăm phương tiện giáo lý để giáo hóa chúng sanh như Đức Phật đã dạy: “Này các Tỳ kheo, hãy đi vì lợi lạc của nhiều người, vì hạnh phúc của số đông, vì lòng lân mẫn đối với thế gian, vì lợi lạc, vì hạnh phúc của trời và người. Các ông hãy đi, nhưng đừng đi hai người cùng một hướng, hãy đi mỗi người một ngả, hãy truyền bá Chánh pháp. Này các Tỳ kheo, Chánh pháp toàn thiện ở phần đầu, phần giữa cũng như phần cuối, cả trong ý tứ và lời văn. Hãy tuyên bố về cuộc sống toàn thiện và thanh tịnh...” [6]. Đó là tinh thần Tự Tứ Tăng và Vu Lan Bồn, ý nghĩa của pháp hội này đã trình bày một giáo lý thuận thứ có thấp có cao, có sự có lý. Một giáo lý nêu cao lòng nhớ ơn, biết ơn, cũng là giáo lý hiếu đạo của bậc Chánh đẳng Chánh giác.

Tóm lại, mùa Vu Lan về nhắc nhở chúng ta những người con Phật cần tác ý đến Tứ trọng ân, không những đối với Cha Mẹ hiện đời và cả Cha Mẹ nhiều đời, ngoài ra chúng ta còn phải nhớ đến ân đức của Phật của Tổ Thầy và các bậc thi ân khác. Vì Đức Phật đã dạy:

Không phải đợi đến giờ này chúng ta mới nhớ ơn, biết ơn mà phải:

Ngày ngày là Vu Lan, giờ giờ là báo hiếu.

 

[1]. Kinh Tăng Chi phẩm bốn pháp.

[2]. Phát Bồ Đề Tâm Văn - Nhớ nghĩ ân Sư trưởng. [3]. Kinh Phạm Võng.

[4], [5]. Chơn Lý Đại thái thức.

[6]. Mahavagga - Ðại Phẩm, tr.19, 20.

[7]. Kinh Tăng Chi V, phẩm Bà La Môn Pinglyani.

NT.YẾN LIÊN (TX.Ngọc Chơn - GĐI)
(Trích Đuốc Sen số 35)