Thiền ngộ (Phần 2)

TẮC THỨ NĂM: GIÁO HOÁ THÍCH KHÁCH

Sự ra đi không trở lại của Chí Thành làm cho Đại sư Thần Tú cảm nhận sâu sắc rằng, thiền pháp của Đại sư Huệ Năng đích xác là cao minh hơn ta. Với sự khích lệ của Ngài lại có thêm vài đệ tử đi đến Lĩnh Nam Tào Khê. Tình hình này dẫn đến sự khủng hoảng của một số đồ đệ danh lợi dưới tướng của Đại sư Thần Tú. Họ tụ tập lại tính mưu kế, bàn bạc làm thế nào để tiêu trừ ảnh hưởng của Đại sư Huệ Năng càng ngày càng lớn rộng trong thiền lâm. Trong đó có một người than rằng: “Nghe nói Lĩnh Nam hằng năm đều có chướng khí dày đặc, sao không hại chết người tiều phu này nhỉ?”

Đúng! Đúng! Chỉ cần cán cờ của Huệ Năng ngã xuống, những gì là gia phong Tào Khê, pháp môn đốn ngộ đều tiêu tan theo mây khói, đi theo Diêm vương thôi. Thế là họ tìm ra tráng sĩ, đầu óc đơn giản lại chuyên bênh vực người bị ức hiếp đó là Trương Hành Xương. Trương Hành Xương là người Giang Tây, từ nhỏ đã thích múa gươm múa kiếm, luyện thành công phu thân cứng, năm ba người khoẻ mạnh cũng đừng hòng đến gần. Anh ta hành hiệp trượng nghĩa, đánh kẻ hung tàn, giúp người hèn yếu, là người có tên tuổi ở dọc bờ Trường Giang. Anh ta tuy là một nam tử hán sấm vang chấp giật, khí thế bừng bừng, nhưng lại là một người rất có hiếu. Vì cầu cho bịnh tình của mẹ thuyên giảm nên thường đến chùa Ngọc Tuyền lễ bái dâng hương. Họ tìm Trương Hành Xương đến liêu phòng, nguỵ tạo ra rất nhiều câu chuyện về Huệ Năng, nói Huệ Năng gian trá như thế nào, lừa dối sự tín nhiệm của Ngũ Tổ, sau khi trộm ca sa chạy trốn suốt đêm, ẩn trốn ở Lĩnh Nam mười sáu năm… những người đó khóc lóc thêu dệt nên chuyện, làm kích động khí thí nghĩa hiệp trừ tà phò chánh của Trương Hành Xương. Anh ta nộ khí xung thiên, đập bàn đứng dậy, nhận lời bọn họ đến Lĩnh Nam hành thích Huệ Năng. Lúc sắp đi, bọn họ cho Trương Hành Xương 10 lạng bạc, nói là để cho mẹ anh ta mời thầy thuốc khám bệnh. Trương Hành Xương lại cảm động đến nổi không biết nói sao cho phải, nên lập tức lên đường, ngày đêm không nghỉ. Băng qua ngọn Đại Dữu Lĩnh ở biên giới của Giang Tây và Quảng Đông, rồi đi thẳng đến Thiều Châu Tào Khê, ….

Ban đêm ở chùa Bảo Lâm rất yên tĩnh, chỉ có suối Tào Khê ở trước chùa, không biết mệt mỏi hát khúc tiểu dạ trong xanh cho núi non trầm mặc. Một bóng đen mặc đồ đi đêm, giống như một âm hồn nhanh nhẹn lặng lẽ lướt qua hàng rào, nhẹ nhàng đi xuyên qua mái hiên chánh điện, tiếp cận với phương trượng - ở đó chính là nơi Đại sư Huệ Năng đang yên giấc!

Bóng đen bí mật, đương nhiên là sát thủ đến hành thích – Trương Hành Xương!

Trương Hành Xương lặng lẽ đứng một hồi lâu trước cửa phương trượng, dường như đang suy nghĩ làm thế nào để vào trong thất. Lúc anh ta đưa tay lên sửa lại mặt nạ bảo vệ, trong lúc vô ý khuỷu tay đụng nhẹ phải tấm cửa lớn, không ngờ cánh cửa kia lại bị mở ra!

Trời ạ! Cánh cửa phương trượng chỉ là khép hờ thôi!

Trên đời lại có những điều may mắn vậy sao?

Đúng là trời đã giúp ta! Trương Hành Xương không nghĩ ngợi nhiều, rút cây dao nhọn sắc bén ra, lách mình đi chậm vào trong thất…

Trong phương trượng vẫn một vùng tĩnh mặc hiền hoà, chỉ có tiếng thở đều đều từ góc phòng vẳng lại. Trương Hành Xương đưa dao lên cao, lặng lẽ mò đến bên giường, nhắm đến phần cổ của người nằm trên giường độc ác đâm xuống – người nằm trên giường vẫn không hề phản ứng gì.

Chẳng biết vì sao mà mọi việc lại rất thuận lợi như thế, hay chỉ là ảo giác, Trương Hành Xương cảm thấy mũi dao đâm xuống có cái gì đó rất khác thường. Anh ta chẳng kể ba bảy hai mươi mốt gì cả, liên tiếp đâm xuống hai nhát nữa. Lúc đó, người vốn phải chết trên giường lại mở miệng nói: “Chánh kiếm không làm việc tà, tà kiếm không làm việc chánh, dao của ngươi là con dao tà ác, vĩnh viễn không thể giết được ta”.

Trời ạ! Trên đời lại có những việc kỳ quái này sao? Trương Hành Xương hồn phách bất định vốn đã nghi ngờ có gì mờ ám, đột nhiên lại nghe ‘người chết’ nói chuyện. Sự kinh hoàng , sợ hãi đủ làm anh ta hồn bay phách tán! Anh ta kinh hoàng la lên một tiếng, sợ hãi đến nỗi ngất đi…

Nguyên là Lục Tổ Huệ Năng từ sau khi đại triệt đại ngộ, thần thông đầy đủ, nên vài ngày trước đã cảm thấy một luồng sát khí dần dần đến Tào Khê. Đêm hôm đó, Ngài cố ý khép hờ cửa, tắt đèn nằm trên giường, nhập vào thiền định từ bi (một trạng thái thiền định có thể hoá giải tất cả sân hận). Cho nên mũi dao của Trương Hành Xương không mảy may làm hại ngài được.

Chẳng biết trải qua thời gian bao lâu, Trương Hành Xương giống như con rắn vào tiết kinh Trập, dần dần dường như tỉnh lại sau trạng thái nghỉ Đông. Anh ta nhìn thấy Đại sư Huệ Năng ngồi ngay ngắn trên giường thiền. Trên thân dường như phóng ra hào quang thần thánh. Trong lòng anh ta cứ mù tịt, chẳng hiểu gì cả chỉ biết quỳ xuống đất không ngừng dập đầu lạy, khẩn cầu Đại sư Huệ Năng tha thứ.

Đại sư Huệ Năng nói: “Ta hoàn toàn không nợ mạng của Ta, ngươi cũng không làm hại đến Ta, cho nên Ta càng không muốn đối xử với ngươi như thế nào cả. Ngươi đi đi! Sau này tự làm cho tốt”.

Trương Hành Xương không thể nào dám tin, người sém chút nữa bị anh ta giết, lại có thể dễ dàng bỏ qua cho anh ta như vậy. Chẳng phải là nằm mơ sao? Anh ta do dự đứng dậy, nhìn ra cửa thử xem nên đi về hướng nào…

“Quay lại!”

Trương Hành Xương giật mình, nhìn lại, Huệ Năng hối hận rồi! Đúng vậy, thù hận của sanh và tử ai có thể quên được? Sống trên đời này bạn có tội thì phải đền tội, về lý thì phải trừng phạt nghiêm khắc!

Ai ngờ, Đại sư Huệ Năng lại nói: “Ta biết, lúc ngươi đến giết Ta, đã nhận trước của người ta mười lạng bạc. Nay ngươi hành thích không được phải đối xử với người ta như thế nào?”.

“Con,…” mười lạng bạc đó đã tiêu hết cho mẹ khám bệnh rồi, chỉ có chết mới có thể tạ tội được, anh ta thật không biết làm sao nữa.

Đại sư Huệ Năng cười, nói rằng: “Tục ngữ có câu, một nén bạc khó giết anh hùng hảo hán. Ngươi tuy thân có võ nghệ, lại nghèo xác xơ, cho nên ta đã chuẩn bị cho ngươi đủ mười lạng bạc. Ta đã để trên ghế bên cạnh ngươi. Ngươi cầm đi để trở về trả lại cho người ta”.

Trương Hành Xương trố mắt đờ đẫn, tiếp đó nước mắt dàn dụa. Một người mãi sống cuộc sống giang hồ khoan khoái với ân nghĩa và thù oán, lưỡi dao liếm máu như anh ta chưa hề nhận được ân tình nồng ấm như vậy. Thế là anh ta phát khởi lòng thành hướng đến Lục Tổ Huệ Năng cầu xin sám hối, ngay lúc đó liền phát nguyện xuất gia, suốt đời hầu hạ bên cạnh Sư phụ để chuộc lỗi lầm. Đại sư Huệ Năng nói: “Ngươi muốn cải tà quy chánh, xuất gia tu hành đương nhiên là rất tốt, nhưng ngươi lại không thể ở lại Tào Khê, càng không thể ở lại bên cạnh ta”.

Thử nghĩ xem ai lại muốn một người đã từng giết mình ở lại bên cạnh chứ? Vẻ mặt Trương Hành Xương lộ vẻ tuyệt vọng, lầm bầm nói: “Đúng rồi! tội của ta không thể tha thứ…”

Đại sư Huệ Năng cười cười nói: “Ngươi muốn đi đến đâu? Nếu ngươi ở lại Tào Khê, Ta sợ các đệ tử của Ta biết được chuyện này sẽ bất lợi cho ngươi, làm tổn hại ngươi, cho nên ngươi tạm thời lánh đi, đợi sau khi tình hình yên lặng rồi quay lại. Đến lúc đó Ta nhất định thâu nhận ngươi làm đệ tử”.

Nước mắt của Trương Hành Xương chảy dài như sông, đầm đìa như mưa lớn, anh ta dập đầu lạy tạ Ngài Huệ Năng rồi lẫn trốn ngay trong đêm.

Sau hơn mười năm, một vị tăng khổ hạnh thần thái mệt mỏi, dung mạo tiều tuỵ đi đến Tào Khê. Anh ta giống như một du tử phiêu bạt nơi chân trời góc bể, bỗng nhiên gặp được mẹ hiền tóc bạc ngày đêm nhớ mong, bổ nhào xuống đầu gối ngài Huệ Năng, khóc rưng rức. Ngài Huệ Năng cũng thật giống như mẹ hiền, xoa đầu anh ta, cảm động nói: “Ta đã nhớ con từ lâu, rất lâu rồi, tại sao bây giờ con mới trở lại?”

Vị tăng khổ hạnh bây giờ chính là sát thủ Trương Hành Xương ngày xưa.

Năm đó sau khi được Đại sư Huệ Năng cảm hoá, đã mai danh ẩn tích, đến xuất gia ở một ngôi chùa nhỏ. Để sám hối tội lỗi của mình, anh ta kiên quyết bắt đầu tu khổ hạnh đầu đà rất là gian nan. Ngài Huệ Năng quan tâm hỏi anh ta: “Con đã xuất gia rồi thì con tu hành như thế nào?”

Hành Xương thưa: “Đã bao năm nay, đệ tử cứ đọc tụng kinh ‘Niết Bàn’ làm thời khoá, nhưng do đệ tử căn cơ thấp kém, lại không có minh sư chỉ dạy, chỉ là theo sách mà đọc thôi, ngay cả ý nghĩa căn bản ‘thường và vô thường’ ở trong kinh đệ đều không hiểu lắm. Hôm nay đúng lúc xin đại Hoà thượng giảng qua cho đệ tử một tí”.

Ngài Huệ Năng nói: “Vô thường trong chốc lát mà có biết bao là thay đổi, tức là Phật tánh, hữu thường chính là tâm phân biệt tất cả các pháp thiện ác”.

Hành Xương giật mình, kinh ngạc hỏi: “Sư phụ, điều mà ngài nói như vậy so với văn nghĩa trong ‘kinh Niết Bàn’ rất sai khác nhau, phải chăng trái lại với ý nguyện của kinh Phật?”

Huệ Năng mỉm cười nói: “ Ta là tổ sư Thiền tông được tương truyền từ cùng một mạng mạch của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là thay Phật tuyên truyền giáo hoá, truyền Phật tâm ấn. Lời của Ta làm sao có thể trái với kinh Phật?”

Hành Xương nói: “Nhưng trong ‘kinh Niết Bàn’ nói Phật tánh là thường mà Ngài lại nói vô thường; trong kinh nói tất cả pháp thiện ác vẫn cho đến tâm bồ đề…đều là vô thường, ngược lại Ngài lại nói là thường. Đây chẳng phải là trái ngược, tương phản với kinh văn sao?”

Đại sư Huệ Năng cười ha hả, cứ cười mãi làm cho Hoà thượng Hành Xương này đờ đẫn ra.

Sư phụ, Ngài cười như vậy con càng mờ mịt hơn.

Đại sư Huệ Năng bảo: “Bộ kinh Niết Bàn này, trước khi Ta đến Hoàng Mai cầu pháp đã nghe Tỳ Kheo Ni Vô Tận Tạng đọc qua một lần. Lúc đó, ta có thể giảng giải cho cô ta , không có chữ nào, nghĩa nào là không phù hợp với nghĩa trong bản kinh ‘Niết bàn’. Nay ta giải thích cho con cũng như vậy”.

Hành Xương vò đầu mãi, cũng không thể xua hết nghi hoặc đầy trong óc não, nên khẩn cầu lần nữa: “Sư phụ! Con bẩm tánh ngu xuẩn, học thức lại ít ỏi, xin Ngài giải thích tường tận cho con”.

Đại sư Huệ Năng gật đầu rồi nói với anh ta: “Con biết không, tại sao đức Phật nói kinh Niết Bàn? Vì sao trong kinh lại nói rõ Niết Bàn có bốn ý nghĩa Thường, Lạc, Ngã, Tịnh?”.

Hành Xương lắc lắc đầu giống như đánh trống rao hàng.

Đại sư Huệ Năng chậm rãi nói: “Có một vài người lấy vô thường làm thường, lấy khổ làm vui, lấy vô ngã làm ngã, lấy bất tịnh làm tịnh, đây là bốn loại điên đảo, cũng chính là tà thường. còn có một số người không rõ đạo lý tuỳ duyên bất biến, bất biến tuỳ duyên, lại đem phi thường, phi lạc, phi ngã, phi tịnh làm thành lý luận bảo bối, đây cũng là bốn loại điên đảo. Chính để phá trừ tám loại thấy biết sai lệch này mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni mới thuyết minh Niết Bàn có bốn đức: chơn thường, chơn ngã, chơn lạc, chơn tịnh ở trong kinh Niết Bàn”.

Pháp đức Phật thuyết đều là vì hoá độ chúng sanh tương ứng. Cho nên, chúng ta không thể đem kinh điển của Phật làm thành một giáo điều bất biến. Con vì những văn tự chết ấy mà lý giải ý nghĩa kinh Phật một cách máy móc, từ đó mà giải thích sai giáo nghĩa vi diệu, viên dung của Phật Đà. Hành Xương này, con nên hiểu rõ, học Phật kỵ nhất là giáo điều cứng nhắc. Cứ như con trước đây vậy thì dù có đọc tụng kinh Phật ngàn lần, vạn lần cũng không ích lợi gì?”

Giáo pháp của Lục Tổ Huệ Năng và Phật Đà giống nhau như đúc, đều là “quán sát căn cơ để giáo hoá thích hợp”. Nếu khi đệ tử chấp trước ‘Phật tánh là thường’ thì Ngài liền nói Phật tánh ‘vô thường’; Nếu đệ tử chấp trước ‘Phật tánh là vô thường’ thì ngài sẽ nói ngược lại ‘Phật tánh là thường’. Thật ra, Phật tánh chẳng phải thường hay vô thường. Đức Phật và Tổ sư nói ‘thường’ và ‘vô thường’ đều là để phá trừ chấp trước của chúng ta.

Một người có mắt sáng dẫn một đoàn tạm thời bị mù đi trị liệu về mắt. Trên đường họ đi tìm thầy thuốc rất là gập ghềnh gian nan, đầy dẫy những hòn đá lớn nhỏ và các hố sâu. Để tránh những chướng ngại đó, người mắt sáng sẽ phải chỉ huy đội ngũ của anh ta lúc thì đi qua trái, lúc lại bảo họ đi qua phải. Cứ như vậy, ắt sẽ có người không khỏi nghi ngờ: trái và phải đúng là ngược nhau, cuối cùng thì anh bảo chúng tôi đi qua trái hay đi qua phải?

Thực ra, người mắt sáng không phải chỉ bảo họ đi qua trái, cũng không phải bảo họ đi qua phải mà là bảo họ đi về phía trước; Kỳ thật, đi về phía trước cũng không phải là mục đích mà là đem họ đến được chỗ trị liệu, làm cho mắt họ được sáng lại.

Dưới sự thấm nhuần cơn mưa pháp của Lục Tổ Huệ Năng, Hành Xương hoát nhiên đại ngộ! Giống như dòng suối tuôn trào từ trong ruộng tâm của Ngài mà chảy ra:

“Vì chấp tâm vô thường, Phật nói có Phật tánh.

Không biết là phương tiện, như nhặt đá ao xuân.

Ta nay không phí công, Phật tánh lại hiện tiền.

Chẳng phải Thầy cho ta, cũng không phải ta được”.

(Nhân thủ vô thường tâm, Phật thuyết hữu thường tánh.

Bất tri phương tiện giả, do xuân trì thập lịch.

Ngã kim bất thí công, Phật tánh nhi hiện tiền.

Phi sư tương thọ dư, ngã diệc vô sở đắc.)

Đại sư Huệ Năng nghe bài kệ ngộ đạo của anh ta xong rất vui, bảo anh ta rằng: “Hôm nay con đã triệt ngộ lớn, pháp danh của con là Chí Triệt nha!

HueNang3

Từ đó Hành Xương đổi tên thành Chí Triệt, nhiều năm ở bên cạnh hầu hạ Sư phụ. Kẻ sát thủ lỗ mãng này một khi đã bỏ dao xuống, không những ngộ thấu sự thật của nhân sanh vũ trụ mà còn trở thành một trong mười người đệ tử lớn của Ngài Huệ Năng lúc tuổi đã già.

Liên quan đến thiền cơ: Cường Đạo Và Đồ Tể

Một đêm hôm nọ, mấy kẻ cường đạo đi cướp của nhà người ta. Cả nhà lớn nhỏ nhìn thấy bó đuốc cháy rừng rực và con dao lớn sáng quắc, sợ quá, họ đều quỳ xuống đất, không ngớt dập đầu cầu xin: “ xin Đại vương tha mạng, xin Đại vương tha mạng…”

Đại vương, Sơn Đại vương tự nhiên làm người ta khiếp sợ. Kẻ cường đạo nghe không lọt tai bèn mắng rằng: “Đại vương cái gì? Ta đây là một anh hùng hảo hán không sợ trời, không sợ đất! Gọi ta là hảo hán!”.

“Hảo hán, hảo hán,…”

Lúc này từ xa vọng lại mấy tiếng gà trống gáy. Các hảo hán không kịp trả lời, vội vàng chạy trốn.

Người lớn trong nhà đó đứng dậy gọi theo cái bóng sau lưng của họ đã nhanh chóng đi xa: “Hảo hán, hảo hán, ăn cơm sáng rồi hãy đi”

Tụng viết:

“Cường đạo sợ trời sáng, gà gáy hiện nguyên hình.

Từ bi giải thù hận, sát thủ tụng Phật kinh”.

(Cường đạo phạ thiên minh, kê khiếu hiện nguyên hình.

Từ bi hóa cừu hận, sát thủ tụng kinh Phật.)

Cường đạo giết người cướp của, tung hoành khắp nơi, tại sao lại sợ trời sáng? Thiền sư Chí Triệt làm sao có thể từ một hung thủ đâm chém Lục tổ lại chuyển hoá thành một trong mười vị đệ tử lớn rất đắc lực của Đại sư Huệ Năng?

Tất cả điều này đều là do tác dụng của “Phật tánh”.

Thời Nam Tống, có một Thiền sư tên Tư Nghiệp ở Thiền viện Văn Thù (nay là thành phố Thường Đức tỉnh Hồ Nam). Tổ tiên ông đời đời nối nhau sống bằng nghề đồ tể. Tự nhiên như vậy, sau khi trưởng thành, ông cũng nối nghiệp của cha, bắt đầu giết heo, mổ dê. Đồ tể cũng có thiện căn, một cơ duyên ngẫu nhiên, anh ta theo những người hàng xóm đến chùa thắp hương lễ Phật. Trong sự tình cờ, anh ta nghe được Thiền sư khai thị đạo lý “tâm là Phật” (tức tâm tức Phật). Mặc dù vậy, anh ta vẫn không thể tin được. Ví dụ một kẻ đồ tể như anh ta thì làm sao có thể “bỏ dao xuống, lập tức thành Phật” được?

Không ngờ, anh ta tuy chưa “bỏ dao xuống, lập tức thành Phật”, mà lại “cầm dao lên, lập tức thành Phật” rồi - Một hôm, lúc anh ta giết lợn như thường lệ, chính ngay trong sát na, mũi dao của anh ta từ cổ lợn thọc vào trong lòng ngực, máu tươi phun trào ra ngoài, anh ta bỗng nhiên thấu triệt nguồn tâm, đại triệt đại ngộ. Anh ta liền làm một bài kệ:

“Ngày qua tâm Dạ xoa, hôm nay mặt Bồ tát.

Bồ tát và Dạ xoa,cách nhau trong gang tấc.”

(Tạc nhật Dạ xoa tâm, kim triêu Bồ tát diện.

Bồ tát dữ Dạ xoa, bất cách nhất điều tuyến.”

Ngay lúc đó, anh ta ném dao mổ xuống đất, bỏ nghề nghiệp cũ, xuất gia làm Tỳ kheo, pháp danh Tư Nghiệp.

Sau khi anh ta xuất gia, hành cước đến chùa Văn Thù, bái kiến Thiền sư Tâm Đạo. Thiền sư Tâm Đạo hỏi anh ta: “Lúc ngươi đang giết heo, ngươi thấy cái gì, mà cắt tóc hành cước vậy?”

Thiền sư Tư Nghiệp yên lặng không nói, ngay trong giảng đường làm một tư thế cầm dao đâm giết. Nhiều năm trước, Tổ sư tông Vân Môn là Thiên Y Nghĩa hỏi đệ tử của Ngài là Huệ Lâm Tông Bản rằng: “Khi tức tâm tức Phật là như thế nào? Tông Bản trả lời như núi lỡ trời kinh: “Giết người phóng hoả có gì khó?”.

Đem so sánh “tức tâm tức Phật” và “giết người phóng hoả” đã chứng minh rõ ràng Huệ Lâm Tông Bản đã khế nhập chân đế của Phật pháp, trừ sạch phàm tình vọng thức và phân biệt đối lập. Cũng như vậy, Thiền sư Tư Nghiệp dùng tư thế cầm dao đâm giết để biểu thị, cho dù là hành vi đang giết heo máu tanh, nhưng tự tánh chưa từng mất đi tí nào. Chỉ cần ngay trong lúc giác ngộ, lập tức có thể thành Phật làm Tổ.

Thiền sư Tâm Đạo Văn Thù ấn khả ngộ cảnh của anh ta, rồi nói: “kẻ đồ tể này đi tham thiền đi!”

Sau đó, Thiền sư Tâm Đạo lui ra, đem chức vụ trú trì chùa Văn Thù truyền lại cho Tư Nghiệp.

Lúc mê thì sát sanh, người tức là Dạ xoa; Trong một niệm giác ngộ, đồ tể liền thành Bồ tát. Dạ xoa và Bồ tát đều là một người mà ra.

TẮC THỨ SÁU: ÂM THANH CỦA TRỨNG GÀ

Năm đó, vị đệ tử quan trọng nhất của Lục Tổ Huệ Năng là Nam Nhạc Hoài Nhượng lúc rời Tào Khê đến Hành Sơn lập môn đình khác, Sư phụ Huệ Năng bảo với ông: “Dưới trướng của ngươi sẽ có một con ngựa non, rong ruổi khắp nơi, đạp phăng thiên hạ. Lại ngược dòng lịch sử, vào thời xa xưa trước khi Tổ sư Đạt Ma đến Trung Quốc, Sư phụ của Ngài là Tôn giả Bát Nhã Đa La , cũng dự đoán với Ngài rằng: “ Trung Quốc tuy rộng lớn nhưng không có đường cho ngươi, chỉ nhờ bước chân của côn cháu ngươi thôi, một hạt gạo trên núi Kim Kê, có thể cúng dường cho La Hán Tăng trong mười phương’.

Người mà chư Tổ sư huyền ký chính là Mã Tổ Đạo Nhất. Thiền sư Đạo Nhất quê ở Thập Phương tỉnh Tứ Xuyên, ho Mã, cho nên người đời sau tôn xưng Ngài là ‘Mã Tổ’.

Ngày xưa, các vị tăng ở Tứ Xuyên có một truyền thống tốt đẹp, sau khi xuất gia thọ giới, luôn phải khắc phục trăm ngàn mối gian nan nguy hiểm, phải xông pha vào những tầng tầng lớp lớp chướng ngại của núi Ba sông Thục, băng qua các thung lũng vây kín của Tứ Xuyên, xuôi về Hạ Giang (người Ba Thục gọi tên vùng đất rộng lớn từ Tam Hiệp trở xuống) vân du tham học, luyện tập thiền đạo –

Sông ra khỏi Tam Hiệp mênh mông cuồn cuộn, nghìn dặm băng băng, chảy xuôi về biển không hề trở lại. Tăng rời Tứ Xuyên, chân trời góc bể sáng rõ mọi điều, ngộ triệt đại đạo mới về quê hương.

Vào giữa niên hiệu Khai nguyên đời Đường Huyền Tông, sau khi Đạo Nhất rời Tứ Xuyên, đến Nam Nhạc Hành Sơn, suốt ngày ngồi thiền sừng sững nơi núi vắng tịch mịch. Đại sư Nam Nhạc Hoài Nhượng bèn cầm một viên gạch vụn đến ngồi mài trước mặt Đạo Nhất. Đạo Nhất lấy làm lạ hỏi Ngài mài gạch để làm gì? Ngài trả lời muốn mài nó để làm tấm gương. Đạo Nhất cười lớn nói rằng: ‘một miếng gạch vụn mà có thể mài thành gương sao?’Đại sư Hoài Nhượng hỏi ngược lại: ‘ông đã biết gạch không thể mài thành gương, vậy ngồi thiền thì có thể thành Phật sao?’

Một lời nói làm tỉnh người trong mộng, từ đó Đạo Nhất tham học dưới trướng Ngài Hoài Nhượng (xem “Thiền Đông Thiền Tây, Mài Gạch Làm Gương”), mười năm gian khổ khác thường, trải qua muôn tôi vạn luyện của Đại sư Hoài Nhượng đã làm cho một tiểu tăng Đạo Nhất mù mờ không hiểu gì trở thành Tông sư Mã Tổ thủ nhãn thông thiên - một người đã được định trước là Đại pháp vương - phải ruỗi rong khắp thiên hạ, tung hoành thiên cổ.

Mười năm mài kiếm, hào quang chiếu khắp đại thiên. Tiếng gào xuất thế của Mã Tổ Đạo Nhất đã đem lại sự phồn thịnh chưa từng có cho Thiền tông. Bởi vì Ngài đã đem khí phách rộng lớn bao la, trí tuệ thần kỳ linh động và thiền lý thâm áo huyền diệu của mình hiển thị ra trong Cuộc sống bình thường hằng ngày, làm cho mỗi một người bình thường nào cũng đều có thể thể hội được sự siêu việt của Thiền, cảm nhận được phong thái của Thiền, lãnh ngộ được trí tuệ Bát nhã của Thiền.

Vì thế học giả khắp nơi vân tập dưới giảng toà của Ngài, Tăng Nạp trong thiên hạ ngưỡng vọng tông phong mà tựu về; Rồng bay hổ gầm, voi dậm chân sư tử hống, Tăng đông vô số, nhân tài muôn vẻ. Vì vậy đạo tràng của Mã Tổ có tên là ‘Tuyển Phật Trường’

Một hôm, Mã Tổ Đạo Nhất đang cao đăng pháp toà tại pháp đường nói với muôn ngàn học Tăng: “Các ngươi, nên tin tưởng tự tâm là Phật, tâm này tức là tâm Phật”. Ban đầu, Đại sư Đạt Ma từ Nam Thiên Trúc đến Trung Quốc chúng ta tuyên dương pháp ‘Nhất tâm tối thượng thừa’ chính là muốn chúng ta ngộ được điểm này”.

Có một vị Pháp sư giảng kinh không hiểu nên bước lên thưa: “Đã là ‘ tức tâm tức Phật’ vậy Tổ sư Đạt Ma còn truyền cho Ngài Huệ Khả bốn quyển ‘kinh Lăng Già’ để làm gì?”.

Mã Tổ gật gật đầu, rồi bảo rằng: “Tổ sư Đạt Ma vì muốn dẫn lời ‘kinh Lăng Già’ để ấn tâm địa của chúng sanh. Ngài sợ chúng ta điên đảo, không tin pháp ‘tức tâm tức Phật’, nên theo ‘kinh Lăng Già’ lấy tâm Phật dạy làm Tông. Vô môn tức pháp môn. Cho nên những vị cầu pháp như các ngươi, không nên cầu gì cả. Không có Phật nào khác ngoài tâm, không có tâm khác nào ngoài Phật”.

Pháp sư hoát nhiên đại ngộ, đãnh lễ mà lui ra.

Một đệ tử khác từ trong đại chúng bước lên trước thưa: “Con xin hỏi Đại Hoà thượng, mỗi ngày chúng con phải tu như thế nào?’.

Mã Tổ Đạo Nhất khai thị tiếp: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, thanh tịnh cũng tốt, ô uế cũng được, tất cả đều không chấp trước lưu luyến, cũng không để tâm ghét bỏ, tức là tu hành. Tâm niệm chúng ta luôn trôi chảy, niệm niệm bất khả đắc bởi vì chúng không có duyên cớ của tự tánh, cho nên tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức (tam giới đều từ nơi tâm, vạn pháp chỉ do thức biến).

Có một vị Thiền tăng nghe toàn tâm hoan hỷ, một lời khế cơ tâm được khai mở giác ngộ, xúc động quá nên khua tay múa chân, cười lớn rồi chạy ra giữa pháp đường. Tăng chúng xung quanh không lạ lùng gì nên tiếp tục lắng nghe Sư phụ thuyết pháp:

“Sâm la vạn tượng trong vũ trụ đều là dấu ấn của một pháp. Tức tâm tức Phật, làm sao mà lãnh hội? Các ngươi nên ghi nhớ: phàm những sắc được thấy đều là tâm thấy, tâm không phải tự tâm, nhờ sắc mà có. Tiếp xúc với các pháp là đạo, dừng lại là chân, hoàn toàn không phải là một loại lý luận! Thử nghĩ, tâm không có hình tướng, làm sao thể hiện được? Tâm có thể nhìn thấy sắc (sắc mà Phật giáo đề cập đến là vạn sự vạn vật), cái mà có thể nhìn thấy sắc, không phải là tâm thì là cái gì? Cho nên, tâm nhờ sắc mà có, thấy sắc tức là thấy tâm. Lỗ đen trong không gian vũ trụ chính là chứng minh sự tồn tại này.

Nhưng mà thiền tâm linh động, ngay cả Phật pháp mỹ diệu cũng không thể làm trở ngại . Vì thế, một thiền tăng đã khai ngộ hỏi một câu rất đặc biệt: “xin hỏi đại Hoà thượng, vì sao ngài nói ‘tức tâm tức Phật?’

Mã Tổ cười nói: ‘Để dỗ con nít đừng khóc’

Trong Phật giáo lưu truyền một câu chuyện như thế này: ‘một đứa bé luôn khóc không ngớt. Cha mẹ cho nó một lá cây khô vàng rồi nói đây là miếng vàng quý nhất trên thế giới. Thế là đứa bé vui mừng đem lá vàng ra chơi, và hết la khóc.

Thiền tăng hiểu ra cười nói: “Khi nín khóc thì như thế nào?”.

Mã Tổ đổi lại kiểu khác, nói: “Chẳng phải Tâm, chẳng phải Phật”

Thiền tăng tiếp tục truy hỏi: “Ngoài hai loại người này ra, Ngài chỉ thị như thế nào?”.

Mã tổ nói: “Nói với anh ta, không phải là vật”.

Thiền tăng vẫn chưa chịu thôi, nhanh như ánh chớp, lại đem thiền cơ mạnh mẽ hướng đến tầng thứ tối cao: “Lúc bỗng nhiên gặp người trong đạo đến, lại phải như thế nào?”

Mã Tổ Đạo Nhất thở dài: “Dạy cho anh ta thể hội đại đạo”.

Tức tâm tức Phật cũng được, chẳng phải tâm chẳng phải Phật cũng được, chẳng phải vật cũng được, đều là lá vàng để dỗ trẻ con mà thôi, đều là để cho chúng ta thông qua nó mà thể ngộ đại đạo. Thiền tâm không có chỗ trụ, không thể chấp trước bất cứ một thứ gì. Cho nên, qua sông rồi nên vứt thuyền, được cá rồi quên nơm.

Một trong những vị đệ tử quan trọng của Mã Tổ là Bàng Cư Sĩ, rất nổi tiếng trong lịch sử Thiền tông, hỏi rằng: “Như nước không gân xương có thể thắng được thuyền lớn vạn hộc, nghĩa là thế nào?”

Mã Tổ quở rằng: “Ở đây không có nước mà cũng không có thuyền, nói gì mà gân xương?”

Tinh tuý của thiền ở ngay nơi thể nghiệm sinh mạng và chứng ngộ chân lý, chứ không phải ở nơi học tập triết lý và tri thức, nếu là mùi vị mà cứ dựa trên chữ nghĩa để viết văn chương thì càng rơi vào sai lầm.

Đương thời, Mã Tổ Đạo Nhất và Quốc sư Huệ Trung ở Nam Dương (xem “Thiền Đông Thiền Tây, Vô Phùng Pháp”) tuy là người của hai thời đại khác nhau, nhưng lại bạn bè thâm giao thường tin tức qua lại. Một hôm, thị giả của Quốc sư Huệ Trung - vẫn còn là một Sa di nhỏ tuổi tên là Đam Nguyên hành cước đến chỗ Mã Tổ, Sa di vẽ trước mặt Mã Tổ một hình tròn, sau đó lễ bái, rồi đứng im chẳng nói lời nào.

Hình tròn, tượng trưng cho Phật tánh viên mãn, biểu thị cho Niết bàn thanh tịnh, cho nên nói ‘Thân hiện tướng trăng tròn để biểu thị thể của chư Phật’. Vì thế, mã Tổ nghiêng nghiêng người về phía trước, cúi người xuống, hỏi một cách thân thiết: “Tiểu Đam Nguyên, chẳng phải con muốn làm Phật sao?”.

Không ngờ, tiểu Sa di chẳng chút cảm kích, nói rằng: “Đam Nguyên con không biết nặn con mắt của mình”.

Trong hư không vốn không có hoa đốm, những người mắt bị bệnh vì con mắt có màng mắt, thường ở trong cái không lại thấy có, nhìn thấy hoa đốm ở trong hư không. Phật giáo lấy đó để ví dụ cho cảnh giới vốn không có thực thể, do vọng kiến mà khởi lên cái biết sai lầm cho là thật có. Đứng trên quan điểm Đệ nhất nghĩa đế mà nói thì pháp không được thành lập, ý niệm thành Phật cũng lại như vậy, hư ảo không thật, giống như con mắt bị nhặm nên thấy những ngôi sao huyễn hoá loạn xạ ở trong hư không vốn thanh tịnh.

Mã Tổ Đạo Nhất cảm khái nói: “Ta không bằng con”

Câu nói ‘không mang ý tốt’ này của Mã Tổ giống như trong bông có dấu kim, không thể cầm nắm được, bạn cho là thật tức là bị lừa rồi - lầm cho huyễn hoá là thật có, cho nên Tiểu Đam Nguyên dường như không nghe thấy, không cho là mình đã hiểu.

Đức Phật dạy: “Bốn thứ nhỏ (Rồng nhỏ, Vua nhỏ, Đốm lửa nhỏ, Sa di nhỏ tuổi) không thể xem thường được” cũng không sai vậy!

Đường đường là Mã Tổ cũng có lúc mất móng chân trước. Nghe nói, trước lúc Mã Tổ ngộ đạo đã từng trồng chuối.

Sau khi Mã Tổ Đạo Nhất đi theo Đạo sư Nam Nhạc Hoài Nhượng được khai ngộ, điều đầu tiên Ngài nghĩ đến là trở về quê hương.

Cổ nhân nói: “Phú quý không trở về quê xưa, như áo gấm đi đêm”. Mây xanh đắc chí, áo gấm về quê, tổ tông vinh quang là một việc vui lớn trong cuộc đời! Người đã khai ngộ, bị hủy đi danh dự cũng không lo sợ, vinh hay nhục đều quên. Cho nên, sự dẹp đường về quê của Mã Tổ, thứ nhất là vì hoằng dương Phật pháp, thứ hai là vì báo đáp ân dưỡng dục ở quê xưa.

Mã Tổ Đạo Nhất có dị tướng bẩm sinh, có khí khái vương giả, có dáng đi của trâu, nét nhìn của hổ, đưa lưỡi lên quá mũi, dưới chân có hai vòng hoa văn. Thế mà, thân phụ của Ngài không phải là Vương tôn quý tộc gì mà chỉ là một người buôn bán nhỏ đi khắp nơi bán gầu xúc, ngay tên của ông họ cũng không nhớ, chỉ gọi ông là ‘Mã Gầu Xúc’.

Mọi người ở quê nghe nói, một vị Cao tăng đắc đạo từ Hồ Nam xa xôi sắp đến, nên cứ ngẩng đầu ngóng trông, còn bày ra một pháp đài cao cao chuẩn bị mời Cao tăng đăng đàn diễn thuyết Phật pháp thần kỳ, đồng thời cũng có thể giúp cho mọi người chiêm ngưỡng phong thái, quỳ bái đảnh lễ. Sự mong đợi thành kính của mọi người cuối cùng đã đạt được kết quả.

Đến rồi, đến rồi, Cao tăng đến rồi! Cao tăng, … ồ, cái gì mà Cao tăng đắc đạo, đây chẳng phải là con trai của Mã Gầu Xúc sao? Ồ, đúng là con trai của Mã Gầu Xúc rồi! Mọi người la lên rồi giải tán, bởi vì họ không tin con trai của Mã Gầu Xúc có thể khai ngộ đắc đạo, thành Phật làm Tổ. Mã Tổ lại rất cảm khái, nói: “Học đạo không về quê, về quê đạo không thơm”.

Người ta chỉ tin tưởng những Hoà thượng từ phương xa đến mới biết tụng kinh, chỉ sùng bái những nhân sĩ phú quý áo gấm về quê.

Vì thế, Mã Tổ đành mang hành trang lên lại cầm Thiền trượng chuẩn bị rời khỏi cố hương lần nữa, đi xuống miền cuối sông. Gặp chị dâu ở ngay cổng lớn của chùa, chị dâu ngăn bước của Ngài, xin Ngài truyền thọ Phật pháp cho. Mã Tổ cười nói: “Chị tin tưởng tôi thật sao? Hay là chỉ an ủi tôi thôi?”

Vẻ mặt chân thành của chị dâu đã biểu thị chắc chắn là mình thành kính cầu pháp với Mã Tổ. Lúc đó con gà của chị dâu đẻ được một cái trứng, nó cứ kêu miết: “cục cục tác, cục cục tác…”.

Mã Tổ Đạo Nhất nói: “Chị đem cái trứng gà đến đây, treo nó lên trên không, mỗi ngày sáng tối ghé sát lỗ tai vào nó nghe ngóng, đợi đến lúc nó phát ra âm thanh, chị liền đắc đạo”.

Trứng gà chắc chắn có thể phát ra âm thanh, nhưng nó phải trải qua sự ấp ủ cho chuyển hoá trứng mới trở thành gà con, khi sắp phá vỏ mà ra tong đó mới phát ra âm thanh. Nhưng mà trong thiên hạ làm gì có trứng gà chưa từng ấp mà phát ra âm thanh? Đây có thể là Phật pháp đúng đắn? không phải là yêu pháp tà ma ngoại đạo chứ?

Chị dâu không nghĩ như vậy, cô rất tin tưỏng lời của người em, làm đúng theo như thế. Sau khi Mã Tổ đi rồi, cô ta nghe ngóng rất nhiều năm, nhưng chưa hề nghe được âm thanh trong trứng gà. Mặc dù mọi người bàn tán xôn xao, người nhà cũng nói cô ta tẩu hoả nhập ma rồi, cô vẫn không để ý, không nản lòng, mỗi ngày đều toàn tâm chú ý nghe ngóng như vậy. Một hôm, ngay trong lúc cô toàn tâm lắng lòng chăm chú lắng nghe, sợi dây nhỏ treo trứng gà bị đứt, trứng cứ thế rơi xuống đất – “tách” trứng gà vỡ vụn!

Đồng thời lúc đó, dường như có tiếng sấm vô thanh đang vang dội trong linh hồn sâu thẳm của cô ấy, tánh linh lâu ngày bị vây khốn đã phá vỡ cái vỏ trứng vô hình. Chị dâu đại triệt đại ngộ.

Nghe âm thanh của vô thanh, đi vào cửa không có cửa, không nghi ngờ là pháp môn vi diệu. Thật ra, chẳng có gì là thần kỳ cả, dừng tâm trụ lại một chỗ việc gì cũng được. Trứng vỡ chẳng qua chỉ là cơ duyên xúc phát mà thôi.

Liên quan đến thiền cơ: Mã Tổ Bướng Bỉnh

Thiền tông, từ lúc Ngài Đạt Ma từ Ấn Độ sang Trung Quốc, tổ tổ tương truyền. Sau khi đến đời Lục Tổ Huệ Năng thì các bậc Long Tượng xuất hiện nhiều, thiền đạo hưng thịnh.

Hai bờ Bắc Nam con sông lớn, Thiền tông tòng lâm mọc lên như măng mùa xuân sau cơn mưa. Các vị Đại tông sư ai nấy đều phát triển sở trường của mình, dựng lên môn đình độc lập, sôi động rầm rộ, rất nhộn nhịp náo nhiệt! Nhưng chẳng ai dám tự ý xưng mình là ‘Tổ’. Không phải sao, Thiền sư Thần Hội ở Hà Trạch, xả bỏ thân mình, không tiếc thân mạng, để lập ra công lao hiển hách xác định địa vị chính thống của pháp môn đốn ngộ, ngay cả Hoàng đế cũng bị Ngài làm cho cảm động, ngự phong Ngài là Tổ thứ bảy của Thiền tông.

Thế mà, người trong tông môn lại không chấp nhận. Thế là thánh chỉ lời vàng ý ngọc cgắc chắn kia lại trở thành trò đùa.

Sở dĩ Thiền sư Đạo Nhất được gọi là Tổ, đương nhiên không phải là do Ngài tự phong cũng không phải do một người - vật quyền uy nào nhận định, mà do Thiền tăng đương thời được Ngài giáo hoá gọi Ngài như vậy.

“Mã Tổ”, cách tôn xưng bình dân này mang ít nhiều hơi thở của núi rừng, dung hoà với vài nét văn hoá thành thị, và cũng có phần như là bạn bè thân thiết, cho nên nó đã không phù hợp với sự truyền thừa của pháp mạch thiền tông, cũng không phù hợp với quy cũ Phật giáo (để biểu thị sự bình đẳng cũng để biểu thị đã đoạn trừ quan niệm thông tục do Đại sư Cao Tăng đời Đông Tấn đề xướng, tăng nhân xuất gia đều lấy họ ‘Thích’ theo họ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni), cũng không phù hợp với lễ nghi thế tục. Nhưng nó lại chắc chắn đại biểu cho lòng dân, đại biểu cho sự kính trọng tự đáy lòng của ngàn vạn Thiền tăng.

Thiền sư Pháp Hội ở Lặc Đàm Hồng Châu (nay là huyện Cao An Giang Tây), nghe nói pháp hội của Mã Tổ rất hưng thịnh bèn mời Thiền sư Duy Kiến là người bạn tốt cùng tham học đến bái yết. Hôm đó, khi đã hành lễ tại phương trượng xong, Thiền sư Pháp Hội tự nhiên muốn hỏi Phật pháp nhưng lại không thể dập đầu suông trước vị Hoà thượng đường đầu này. Thiền sư hỏi: “Ý của Tổ sư từ tây Vực đến là gì?”

Mã Tổ nhè nhẹ nói: “Nói thầm thôi, lại gần đây, ta nói cho ông nghe”.

Thiền sư Pháp Hội rất cảm động, phấn khởi và cũng rất hồi hộp!

Mã Tổ biểu thị như vậy nhất định là muốn đem Phật pháp bí mật truyền cho ông. Thiền sư cố kìm nén trái tim đang nhảy thình thịch loạn xạ, vội vàng vươn tới trước mặt Mã Tổ….

“Bốp!”

Đột nhiên Mã Tổ đưa tay tát vào mặt Pháp Hội một bạt tai, nói: “Vì có người thứ ba đang ở trong pháp đường, không thể giữ được bí mật, ngươi đi đi, bữa sau lại đến”.

Tuy tự dưng lại bị ăn một bạt tai nhưng trong lòng Thiền sư Pháp Hội vẫn thấy vui vui như trước, bởi vì Mã Tổ hứa ngày khác sẽ trao truyền bí quyết Phật pháp cho ông. Đúng thế, tâm ấn bí mật của Phật đâu có thể qua loa được? Chắc chắn phải trong một tình huống hết sức kín đáo bí mật, miệng truyền qua tai mà thôi.

Trong mấy ngày đó, Thiền sư Pháp Hội cứ để tâm quan sát, nhẫn nại chờ thời cơ. Trời xanh không phụ lòng người, cuối cùng, có một hôm, Thiền sư phát hiện Mã Tổ đi một mình vào pháp đường. Pháp Hội tránh né ánh mắt của mọi người, một mình lặng lẽ lọt vào pháp đường, không đợi chờ được nữa, thưa: “Bây giờ không có ai cả, xin Hoà thượng nói cho con biết ý chỉ bí mật mà Tổ sư Đạt Ma đem từ Tây Trúc qua?”

Ai ngờ, Mã Tổ lại nói: “Ngươi đi đi, đợi đến lúc ta chính thức lên pháp đường ngươi đến hỏi, ta sẽ ấn chứng cho ngươi”.

Ngoài sự dự đoán! Thật ngoài sự dự đoán của Thiền sư Pháp Hội! Thiền sư thật không ngờ tới, bản thân đã lo liệu tính toán, khổ tâm mong đợi, thế mà kết cục lại như thế. Nên biết, lúc chính thức lên pháp đường, có trăm ngàn tăng chúng vân tập về pháp đường. Trước mặt tăng chúng, làm sao mà trao truyền ý chỉ bí mật? Đúng thật là ý tưởng này đã không đạt được kết quả, nó đã đánh tan, triệt để huyễn tưởng của Pháp Hội. Trong bức bách, ông tự nhiên quay đầu, thoáng thấy mặt mũi chân thật của chính mình. Pháp Hội liền tỉnh ngộ!

Sau khi Pháp Hội khai ngộ, lập tức cử chỉ hành động không như trước nữa, ông nói với pháp đường trống trải thênh thang rằng: “Tạ ơn đại chúng chứng minh”. Tiếp đó, ông đi quanh pháp đường một vòng rồi nghênh ngang bỏ đi.

Đây chính là thủ đoạn cay cú mà không để lại vết tích của Mã Tổ.

Thiền sư Duy Kiến ở Lặc Đàm Hồng Châu cùng đến với Pháp Hội, là một người đã tham thiền từ lâu. Một hôm, ông toạ thiền dưới cây lớn ở phía sau pháp đường, Mã Tổ nhìn thấy nên đi đến, cúi người xuống, thổi thổi vào lỗ tai ông.

Ông lão này cũng thật là, ông là bậc đại đạo sư hướng dẫn cho hàng ngàn tăng chúng tu hành, là một phương trượng ở địa vị cao, là tượng trưng cho Phật tánh, tại sao lại có thể đùa nghịch như đứa bé lên ba vậy? Điều càng không nên đùa là Thiền sư Duy Kiến đang toàn tâm toàn ý toạ thiền, không hề phản ứng, thế mà Ngài không cam tâm, lại nghịch ngợm thổi bên lỗ tai người ta một lần nữa.

Lần thứ hai bị thổi, Thiền sư Duy Kiến mở mắt trả lời, ông nhìn thấy Mã Tổ nên không có biểu hiện gì, chỉ cố gắng tiếp tục nhập định. Mã Tổ trở về phương trượng bảo thị giả đem một bát trà cho Duy Kiến. Thiền sư Duy Kiến nhìn nhìn vào bát nước, không uống, đứng dậy đi vào tăng đường.

Mã Tổ hai lần thổi vào lỗ tai Thiền sư Duy Kiến, làm cho ông kinh động rồi đứng dậy. Mục đích là bảo cho ông ta không những là chỉ có thể tuỳ thời nhập định mà phải biết tuỳ thời xuất định. Lại sợ ông ta giống như mình năm nọ đã rơi vào trong thiền vô ích nên bảo thị giả mang nước trà đến khiến cho người ta tỉnh táo ra. Thiền sư Duy Kiến và Sư phụ đều có tâm linh sắc sảo, hiểu rõ đạo lý ‘cây khô không thể mọc chồi non, nước chết không có rồng sống’, cho nên đứng dậy mà đi.

Đạo lý nghiêm túc như vậy lại phải dùng cách thức này để biểu đạt, chính vì Ngài là Mã Tổ! Mã Tổ giỏi giang, hoạt bát, thậm chí có phần bướng bỉnh!

Sử sách ngàn năm ghi công đức, bia miệng ngàn đời ở lòng người.

TẮC THỨ BẢY: THIỀN NHÂN LANH LỢI

Vào thời kỳ nhà Đường hưng thịnh, bắt đầu từ khi tông phong mạnh mẽ to lớn của Lục Tổ Huệ Năng như bão táp đột tiến, lôi cuốn cả nước đi theo. Lúc Mã Tổ Đạo Nhất đang phát triển thiền phong mạnh mẽ ở Giang Tây, “Tuyển Phật Trường” đang phát đạt, Đại sư Thạch Đầu Hy Thiên mặc nhiên sừng sững trên đỉnh Nam Nhạc Hành Sơn, biển rộng thuyền là đường, núi cao người là đỉnh. Vị triết nhân vĩ đại này rõ ràng đem thiền đặt ở một cao độ chưa từng có.

Cùng lúc đó, tại kinh đô phồn hoa - Trường An, có một vị đạo cao đức trọng, Ngài đã có gần một trăm năm tu tập thiền định, nhặt Thái sơn như Hồng Mao, vốc nước lên được trăng sáng, đem sương thiền ngọt ngào nhẹ nhàng rải khắp đầu đường cuối ngõ, cho đến trong hoàng cung quý phủ. Ngài chính là Quốc sư Huệ Trung ở Nam Dương.

Quốc sư Huệ Trung là người kế thừa pháp của Lục Tổ Huệ Năng, là người tận mắt thấy Lục Tổ. Vì thế, trong chốn tòng lâm đương thời ở phía Nam, những thiền giả mới xuất hiện ai cũng xách bình, mang bát, giày cỏ, nón rộng vành, gậy trúc lặn lội ngàn dặm đi lên phía Bắc. Họ tự nhiên muốn đến đạo tràng của quốc sư Huệ Trung ở Trường An, đăng đường nhập thất bái yết tham kiến Ngài. Nếu không thì ở trên giang hồ chỉ giả xưng thiền khách lại bị người ta cười chê.

Hơn một ngàn năm trước, trên con đường lớn cây cỏ um tùm đất đỏ loang lỗ, có ba vị Tỳ-kheo trẻ tuổi gió cát dặm trường từ phía Nam đi lên phía Bắc. Không cần đoán cũng biết họ là những thiền nhân đi đến Trường An để lễ bái Quốc sư Huệ Trung.

Họ đều là những đệ tử đắc pháp của Mã Tổ Đạo Nhất , đó là Nam Tuyền Phổ Nguyện, Quy Tông Trí Thường và Ma Cốc Bảo Triệt. Trong đạo tràng hàng trăm ngàn tăng chúng của Mã Tổ, ba người họ là giỏi nhất nên kết bạn vân du tham học. Họ vượt qua Cán Giang, Trường Giang, gió mưa không sờn, ngày đêm không nghỉ, lòng hướng về miền Bắc xa xôi lạ lẫm mà tiến bước.

Ba ngàn dặm dần dần cũng trôi qua, bàn chân họ đã bước qua hơn nữa lộ trình, mắt thấy thành Trường An ngày một gần hơn, bước chân gần như cũng nhẹ nhỏm hơn nhiều. Huống là hôm nay mưa hoà gió thuận, con đường bằng phẳng, thật là một ngày lên đường tốt đẹp. Thế mà đang đi, Nam Tuyền bỗng nhiên dừng chân, ông vẽ chính giữa đường một vòng tròn rồi ngoảnh đầu nói với hai huynh đệ: “Nếu các anh có thể nói ra được, thì đi tiếp”.

Trong tình huống này, bạn biết phải nói như thế nào?

Ngược lại, Quy Tông Trí Thường và Ma Cốc Bảo Triệt sẽ không mở lời, chỉ thấy Quy Tông sải chân bước vào trong vòng tròn, đặt mông ngồi xuống; còn cử chỉ Ma Cốc lại càng kỳ lạ hơn, ông là người già nhất trong nhóm, vậy mà làm ra vẽ ngượng nghịu, cố tạo ra như thể yểu điệu, học theo kiểu dáng của con gái, bắt chước tư thế của con gái lễ bái…

Thiền giả ngày xưa xoay chuyển rất nhanh, chúng ta thấy Quy Tông và Ma Cốc biểu diễn đặc sắc biết bao!

Đến bước này rồi, thì tự nhiên phải một mất một còn, thế là Nam Tuyền nói: “Đã là như vậy thì không đi nữa.”

“Đây là vọng tưởng tạo tác gì vậy?” Quy Tông nói. Đó là anh ta lấy khách làm chủ, phải xem xét Nam Tuyền lại xem.

Ba vị thiền nhân này đều là những người nhạy bén lanh lợi, ngộ thấu những điều liên quan đến thiền, sức thấy biết tương đồng, biết rõ nguồn cội, tâm tâm tương ấn cho nhau. Vì thế, người tung người bắt, một mất một còn, biểu hiện rất xảo diệu.

Vì cái vòng tròn của Nam Tuyền Phổ Nguyện này mà ba Thiền tăng không lên phía Bắc nữa, liền đổi phương hướng, đi về phía Nam.

Nam Tuyền Phổ Nguyện chính là một Thiền khách tinh nhanh cổ quái như thế. Các Thiền sư đời sau đánh giá Ngài: “Có sự lanh lợi để bắt hổ, có cái uy giết hổ, ứng đối với Ngài thật khổ lắm thay!”

Từng có một vị Tăng hỏi Nam Tuyền Phổ Nguyện: “Trước khi cha mẹ chưa sanh, lỗ mũi ở chỗ nào?”. Vị tăng này hỏi đã kỳ lạ, câu trả lời của Nam Tuyền lại càng xảo diệu hơn: “Cha mẹ đã sanh ra ngươi rồi, lỗ mũi lại ở chỗ nào?”

Phản ứng đầu tiên của bạn là rờ lỗ mũi, thế nào cũng ăn ba mươi gậy của Ngài Nam Tuyền! Nếu như quả thật bạn rờ lên mũi thì gậy của Nam Tuyền sẽ gãy luôn - đánh cho gãy gậy luôn!

Nhớ lại năm đó, trên núi Nam Tuyền ở Trí Châu (nay là tỉnh An Huy) có biết bao Thiền tăng đã từng thê thảm dưới ‘độc thủ dày vò’ của Ngài.

Hôm đó, một vị Tăng vân du tên là Lương Khâm, dẫn theo một người bạn đến trượng thất của Nam Tuyền Phổ Nguyện. Nam Tuyền hỏi anh ta: “Trong kiếp Không có Phật hay không?”.

Khoảng thời gian thế giới hình thành đến huỷ hoại, chia làm bốn giai đoạn: Thành, Trụ, Hoại, Không, gọi là bốn kiếp. Kiếp Không tức là trong thời kỳ này thế giới đã bị hoại diệt, trong dục giới và sắc giới chỉ còn trời Tứ Thiền của cõi Sắc giới, ngoài ra toàn là hư không. Hơn nữa, trước khi thế giới hình thành, thời kỳ mà vạn vật chưa sanh sôi, cũng gọi là kiếp Không. Nói một cách thông thường thì đó chính là trạng thái ‘kỳ điểm’ hỗn độn trước khi tiếng nỗ lớn của vũ trụ xảy ra như các nhà khoa học đã nói.

Lương Khâm nhiều năm tham học ở các Đại Tòng lâm, thấy nhiều, biết nhiều nên anh ta trả lời rằng: “Trong kiếp Không có Phật”.

Nam Tuyền hỏi anh ta là Phật gì? Lương Khâm khí thế ngang trời nói: “Là Lương Khâm!”.

Thiền tăng chính là có khí phách này, ta không làm Phật thì ai làm Phật. Nhưng người mà Lương Khâm gặp phải là Nam Tuyền. Nam Tuyền nhẹ nhàng hỏi: “Ông sống trên quốc độ nào vậy?”

Thế giới chưa thành, vạn vật chưa sanh, ông an thân ở chỗ nào? Lương Khâm cứng lưỡi không trả lời được.

Vị Thiền tăng cùng đến không muốn nói chuyện kiểu có có không không như vậy, nên thật thà thưa hỏi: “Thưa đại Hoà thượng, các đời Tổ sư tương truyền cho nhau, không biết nên truyền cái gì?”

Nam Tuyền không phải là thầy giáo, nhưng lại giống như đang dạy trẻ con đếm số vậy, gập ngón tay lại đếm: “một, hai, ba, bốn, năm”.

Thiền tăng ngơ ngác nghi ngờ không hiểu: Lẽ nào Tổ Đạt Ma xa xôi vạn dặm từ Tây Trúc đến đây, tính mạng của sáu đời Tổ sư nguy hiểm như treo trên sợi tóc, mà điều được truyền là những thứ đơn giản nhất, thông thường nhất, quen thuộc nhất này hay sao? Anh ta suy đi nghĩ lại rồi đổi cách hỏi khác: “Thiền pháp của cổ nhân là gì?”

Không ngờ Nam Tuyền Phổ Nguyện lại nói: “Ái chà! đợi có rồi sau này hẵng nói”

Thiền tăng không nhẫn chịu được, chẳng chút khách khí bài bác rằng: “Đại Hoà thượng, tại sao ông lại nói xằng xiên bậy bạ vậy?”

Nam Tuyền cười nói: “Ta không nói bậy, Lô Hành Giả Huệ Năng mới nói bậy kìa”.

Thiền chẳng phải xa xôi gì, đạo cũng ở nơi gần gũi, có thể đạt được bình thường như đếm một, hai, ba, bốn, năm vậy. Nếu như bạn nhất định cố tình tìm kiếm những thứ gì độc đáo, đặc biệt, thì ngược lại nó sẽ biến thanh những thứ xa xôi mịt mù, không thấy được, không tìm được. Cho nên Nam Tuyền nói: “Đợi có rồi sau hẵng nói”.

Từ khi Mã Tổ Đạo Nhất nói ‘tức tâm tức Phật’, chủ trương này đã được các Thiền tăng xem như là quy luật vàng ngọc. Thế là, chân lý liền biến thành giáo điều cứng nhắc, nên thiền cơ gợi ý cho Thiền tăng khai ngộ ngược lại đã trở thành khuôn mẫu sáo mòn vây kín tâm linh người học thiền. Thiền là sự linh động! Nam Tuyền không do dự đứng lên, phủ định cách thuyết pháp của Thầy mình: “Đại sư Mã Tổ ở Giang Tây nói ‘tức tâm tức Phật’, thầy Vương (Nam Tuyền họ tục là Vương cho nên thường ngày tự xưng là thầy Vương) không nói như vậy, ‘không phải tâm, không phải Phật, không phải vật’”.

Có một đại đức nghiên cứu về thiền học, công phu tu hành rất thâm hậu nhưng vẫn còn nghi hoặc: ‘tức tâm tức Phật không được, chẳng phải tâm chẳng phải Phật cũng không được, không biết thiền của đại Hoà thượng Ngài phải như thế nào?’.

Nam Tuyền phổ Nguyện cười nói: “Ông là người tu hành nhiều năm nên tin tưởng tức tâm tức Phật mới phải, tại sao lại còn phải hỏi cái gì là được hay không được? Ví dụ, vừa rồi ngươi ở trong trai đường của tự viện ăn cơm, thì rốt cuộc là từ trên hành lang Đông xuống dưới hành lang Tây hay là từ trên hành lang Tây xuống dưới hành lang Đông? Ngươi không thể cứ hỏi vặn người khác như thế được!”.

Đại đức nghe được lời này, giống như từ trong một cái thùng gỗ đen rơi ùm xuống đất, trước mắt là một vùng ánh sáng rực rỡ - cảnh giới khai ngộ đẹp đẽ diệu kỳ đến thế.

Nam Tuyền Phổ Nguyện dùng những sự vật bình thường như thế để gợi ý cho Đệ tử làm cho họ thấy đạo ngay trong cuộc sống. Phương pháp này của Ngài bình thường giản dị nhưng lại giúp cho nhiều thiền giả nhạy bén lanh lợi, đạt được lợi ích vô cùng. Trong lịch sử có danh xưng ‘cổ Phật’ của Ngài Triệu Châu Tùng Thâm, cũng chính là người hoát nhiên đại ngộ dưới sự điểm hoá ‘tâm bình thường là đạo’ của Ngài.

Sau một bữa trưa có gió đông mát mẻ thổi đến, Nam Tuyền cầm liềm lên núi cắt cỏ tranh – chuẩn bị mùa xuân năm tới sửa sàng mái nhà tranh. Ánh nắng mùa thu lên cao, ấm áp và thoải mái, cỏ tranh đầy núi vắng nổi lên oằn xuống theo gió, nghiễm nhiên như sóng cuộn dâng trào. Nam Tuyền cúi mình cắt cỏ tranh bị cỏ trên núi cao lay động biến thành một con thuyền nhỏ nhoi….

Lúc bạn tập trung chú ý thì lao động cũng giàu tình thơ ý hoạ như thế.

“Xin hỏi, con đường Nam Tuyền thông đến nơi nào?”

Nam Tuyền nghe nói thẳng lưng đứng dậy, nhìn thấy một vị Thiền tăng vân du đi đến bên cạnh. Nam Tuyền không trực tiếp trả lời câu hỏi của Thiền tăng mà đưa cây liềm trong tay lên trước mắt anh ta, không cần suy nghĩ, nói: “Cây liềm này tôi mua ba chục đồng”.

Lời lẽ của Nam Tuyền lạ lùng phải không? Bởi vì, Thiền tăng này tuy từ phương xa đến nhưng từ trong lời nói của anh ta có thể biết được, anh ta đã biết vị lão tăng toàn tâm toàn ý cắt cỏ này chính là Nam Tuyền. Anh ta không phải đang hỏi con đường Nam Tuyền mà đang thỉnh giáo Thiền Nam Tuyền. Mà Thiền Nam Tuyền lại tự nhiên giống như ba mươi đồng mua được một cây liềm vậy.

Vị tăng kia không biết vàng nạm ngọc, như giấu châu báu trong áo mà lại đi xin. Anh ta hỏi thêm lần nữa: “con không hỏi chuyện cây liềm, rốt cuộc con đường Nam Tuyền đi về phương nào?”

Nhưng Nam Tuyền lại chỉ nói với anh ta về cây liềm. Ngài lấy tay thử thử cây liềm, xem nó sắc bén đến mức độ nào, rồi nói với Thiền tăng: “Ta dùng nó rất nhanh nhẹn đó!”

Đúng vậy! Nam Tuyền sử dụng liềm cắt cỏ chính là đang thực hành thiền Nam Tuyền! Đáng tiếc, vị tăng kia dốt nát không ngộ.

Ôi, Hoà thượng trọc đầu tìm dễ, mà thiền nhân nhạy bén lại khó gặp!

Khi gặp được thiền nhân nhạy bén thì như thế nào?

Rất nhiều năm trước, khi Nam Tuyền chưa khai pháp hoằng thiền, Ngài ở một mình trong am cỏ nhỏ một thời gian rất lâu, tự trồng tự gặt hái, tự làm tự ăn, tự tu tự ngộ. Những ngày tháng sống trong núi giống như nước chảy trong con suối nhỏ giữa núi, hoạt bát vui vẻ; giống như gió thổi qua rừng, trong lành tự tại.

“Thiền thất trên núi treo áo tăng,

Ngoài cửa vắng người chim bay qua,

Hoàng hôn hơn nửa đường xuống núi,

Lại nghe tiếng suối nhớ núi xanh”.

(Sơn đầu thiền thất quải tăng y,

Song ngoại vô nhân khê điểu phi,

Hoàng hôn bán tại hạ sơn lộ,

Khước thính tuyền thanh luyến thuý vi.)

(Thơ Mạnh Hạo Nhiên)

Một hôm, một vị Thiền tăng hành cước đến am cỏ, sau khi chào hỏi, vị Tăng kia chẳng nói chẳng rằng ngồi xuống trên ghế Thiền mà Nam Tuyền thường ngồi, yên tĩnh ngồi xuống xem như không có ai bên cạnh. Xem ra, anh ta muốn ở lại tu hành ở một nơi yên tĩnh như thế này. Nam Tuyền nghĩ bụng, có một người làm bạn, điều này cũng rất tốt. Bèn nói với anh ta: “Bây giờ ta lên núi làm rẫy, lúc gần trưa, ngươi chuẩn bị cơm nước rồi ăn trước, sau đó đem lên núi cho ta một phần”.

Nam Tuyền đi rồi, vị Tăng kia toạ thiền hết hai cây hương. Đã gần trưa rồi, anh ta làm theo lời dặn của Nam Tuyền, bắt đầu nhóm lửa nấu cơm. Ai ngờ, anh ta ăn no rồi, không những không đem cơm lên núi cho Nam Tuyền , ngược lại còn đem chén bát, nồi niêu, vò hũ của Nam Tuyền đập vỡ hết. Sau đó anh ta yên tâm nằm ngủ ngon lành trên giường của Nam Tuyền.

Đáng thương cho Nam Tuyền, ở trên núi vung mạnh cuốc khai khẩn đất hoang hơn nửa ngày, bụng đói đến nỗi da đã đụng đến xương sống. Ngài trông trái ngóng phải, nhìn mặt trời đã chuyển về hướng Tây nhưng vẫn không nhìn thấy bóng dáng của vị Tăng kia đem cơm đến. Đói khát và lo lắng đã kéo Nam Tuyền về đến am tranh. Thế là Ngài thấy toàn là tiếng lanh canh lách cách – trong trí Ngài hiện lên một cách linh hoạt cảnh những đồ dùng hằng ngày của Ngài biến thành một đống bừa bãi. Ngài quay đầu lại, thấy trước mắt vị Tăng kia tự tại cứ thế nằm trên giường của mình chìm trong giấc nồng say.

Nam Nhạc ngáp một cái, cũng leo lên giường, nằm bên cạnh vị Tăng kia, nhắm mắt ngủ. Không ngờ vị Tăng kia lại leo lên chẳng thèm để ý đến Nam Nhạc bên cạnh, đứng dậy đi ra khỏi am tranh, không để lại tông tích gì.

“Một thiền nhân lanh lợi quá!” Nam Nhạc cảm thán khen.

Từ đó, Nam Nhạc rời khỏi am cỏ, xuống núi hoằng pháp, viết lên trên lịch sử Thiền tông một trang huy hoàng xán lạn về Ngài.

Liên quan đến thiền cơ: Bà Lão Hiểu Thiền

Nam Tuyền Phổ Nguyện và Ma Cốc Bảo Triệt vẫn từng đi Hàng Châu tham yết một vị quốc sư khác – Kính Sơn Quốc Nhất - Lần đó, kết bạn cùng với hai Ngài là một sư đệ khác - Đại Từ Hoàn Trung - họ đi đến nửa đường, gặp một bà lão tóc rối mặt dơ đang gặt lúa nước.

Ma Cốc Bảo Triệt bước lên trước hỏi thăm bà lão đường đi: “Đường đến Kính Sơn đi như thế nào?”

“Đi thẳng về phía trước”.

Phương hướng của bà lão giảu mồm lại xuất hiện thêm một khe suối nhỏ. Dường như dòng suối róc rách kia chảy từ chính miệng bà lão ra vậy. Nước suối vắt ngang đâu có đường đi. Bảo Triệt lại hỏi: “Nước sâu không? Đi qua được chứ?”

Bà lão kiễng chân lên, để lộ đế giày nói: “không bày chân”.

Bà lão dáng vẻ ăn mày này dung mạo chẳng ra làm sao thế mà lời lẽ rất là ý vị.

Ba vị Thiền sư biết mình đã gặp phải cao nhân rồi. Ma Cốc Bảo Triệt dò hỏi: “Cũng đất, nước như nhau, tại sao lúa nước trên bờ vừa dày vừa tốt, lúa nước dưới bờ lại thưa và yếu?”

Bà lão nhìn quanh ruộng lúa, giọng đầy ý thiền nói rằng: “Đều bị Cua ăn hết rồi”.

Bảo Triệt liền khen: “Lúa thơm quá!”.

Bà lão lập tức đối đáp sắc sảo: “Không có khí thở”.

Bà lão này tu thiền ở đâu, mà lửa lò đã xanh (tu hành đã thành công)? Ba huynh đệ bước tới hỏi thăm chỗ ở của bà.

Theo ngón tay của bà lão, họ nhìn thấy một quán nhỏ sơ sài bên đường. Xem ra, đây là một quán trà mời gọi khách qua đường. Lão bà tự nhiên chính là bà lão bán trà “lò lửa nấu sôi ba con sông, bình trà chế ra ngàn núi xuân”. Ba vị Thiền sư thứ tự ngồi nhập định, bà lão pha cho họ mỗi người một tách rà, rồi nói thêm một câu: “Sư tăng, có thần thông thì mời uống trà”.

Uống trà, còn phải hiện thần thông sao? Thần thông uống trà thể hiện như thế nào?

Ba vị Thiền sư đưa mắt nhìn nhau, tôi nhìn anh, anh nhìn tôi, chẳng biết làm sao nữa.

“Xem lão tự trình thần thông này!” Vừa nói, bà lão bưng ba tách trà lần lượt tạt xuống đất.

Ba Thiền sư mắt lớn trợn mắt nhỏ, đợi họ tỉnh ngộ lại, bà lão kia đã mất tung mất tích tự lúc nào.

TẮC THỨ TÁM: DUY CHÍNH ĐẤU VỚI NAM TUYỀN

Lúc Thiền sư Duy chính tham yết Mã Tổ, chỉ một lời khế cơ, hoát nhiên đại ngộ. Thế là nhẹ nhàng ra đi, vân du đến nơi núi sông danh tiếng, tùng lâm lan nhã (chùa kỳ ảo thanh nhàn u tịch).

“Lúc đến nơi đầu suối,

Ngồi nhìn mây kéo lên,

ngẫu nhiên gặp cụ già.

Nói cười mãi không dứt”.

(Hành đáo thuỷ cùng xứ,

Toạ khan vân khởi thời,

Ngẫu nhiên trị lâm tẩu,

Đàm tiếu vô hoàn kỳ).

(Thơ Vương Duy)

Thiền tăng không nhà bốn phương là nhà, tuỳ duyên tiêu nghiệp tháng năm qua; Bát đất xin ăn cơm muôn nhà, bình nước đựng trà nhà nhà dâng; Thiền trượng vượt qua khắp nẻo đường, giày cỏ làm thuyền vượt trùng dương…

Thiền sư Duy Chính tâm vô quái ngại, tuỳ duyên mà ở, tuỳ ý mà đi, từ Giang Tây đến Hồ Bắc, vượt ba ngàn dặm mây nước đến đất Thiểm Tây. Vẻ đẹp thần kỳ của núi Chung Nam hẳn có thể làm đạo tâm thanh tịnh, nhưng sự phồn hoa trong đô thị cũng có thể xúc phát thiền cơ vậy? Chẳng phải cổ nhân đã từng nói, tu Thiền nơi ngã tư đường vẫn tốt đó sao. Huống hồ đạo tràng của Quốc sư Huệ Trung lại ở ngay trong thành Trường An ấy. Nghe nói, Ngài thường xây tháp không có tầng nối (tượng trưng cho cảnh giới Thiền). Đã gần đến nơi rồi, có thể không đi xem được sao? Nói không chừng, có thể mượn đồ hoạ tháp không tầng của Quốc sư Huệ Trung để tự mình cũng có thể xây một cái. Thế là, Thiền sư Duy Chánh đi vào cổng thành Trường An.

Kinh thành rất náo nhiệt, thành quách phố xá muôn màu muôn vẻ, cảnh vật, con người rộn ràng, nhộn nhịp. Thiền sư Duy Chính vừa đi vừa ngắm cũng rất tiêu dao tự tại. Sự tiêu dao của ông lại làm cho người khác không được tự tại - Một ông quan cùng mấy thuộc hạ đang chơi trò đánh toan phạt rượu ở quán rượu bên đường, xuất chiêu bất lợi anh ta thua liên tiếp ba ván. Ngoái đầu nhìn lại, anh ta phát hiện một Hoà thượng đầu trọc lóc lắc lư lù lù đi đến.

“Hừ! Ta bảo tại sao chẳng thắng được ván nào, hóa ra là do cái trứng tròn bên kia đang đến! Đều là do xúi quẩy Hoà thượng này đem đến, liên luỵ đến nổi ta cũng bị cạo trọc đầu!”.

Quan nhân rất phẫn nộ, thuộc hạ lại phụ hoạ thêm: “Tăng nhân kia, đúng ra ngươi nên ở trong núi sâu, tại sao lại có thể huênh hoang khoác lác đi qua chốn này? Phải chơi ông ta một trận mới được”.

Quan nhân và thuộc hạ hạ giọng đằng hắng mấy câu, trong đó có một người bước đến cửa quán rượu, đứng sau một con lừa. Thời đó, người miền núi đều dùng con lừa làm phương tiện để đi đường, cho nên trong thành Trường An ở trước cửa mỗi quán xá đều có chỗ buộc lừa cho khách. Lúc Thiền sư Duy Chính thong thả đi qua con đường trước quán rượu, người kia lặng lẽ đổ rượu nóng trong chén lên mông con lừa. Con lừa bị đau hoảng sợ đá hậu, không ngớt kêu la. Đúng lúc đó, quan nhân bỗng nhiên làm như có việc liên can, đến lớn tiếng gọi: “Hoà thượng!”

Thiền sư Duy Chính nghe gọi ngoái đầu lại , đang chuẩn bị đáp lời, quan nhân lại chỉ tay đến con lừa, rồi cười ha hả với thuộc hạ.

Thiền sư Duy Chính vẫn một mực tự nhiên, bình thản, mỉm cười không đáp, tay phải chỉ chỉ quan nhân, rồi lại chỉ chỉ con lừa. Tuồng như vẽ một đường liên kết giữa người và lừa.

Đồng loại thì tương ứng với nhau để tìm cầu tiếng nói chung.

Chùa xưa danh tiếng trong thiên hạ rất nhiều nhưng không giữ nỗi bước chân thong dong của Thiền sư Duy Chính, mà một vùng núi hoang vắng tịch mặc lại làm cho Ngài treo túi nải lên cao.

Cỏ hoang mênh mông dọn làm lối đi, cờ thiền phấp phới tung bay trong gió. Thiền sư Duy Chính lại là đệ tử ruột của Mã Tổ, đã trải qua trau dồi tôi luyện trong ‘Tuyển Phật Trường’. Cho nên, lúc Ngài bắt đầu xây dựng đạo tràng, mặc dù chỉ là một vùng hoang dã, nhưng Thiền tăng khắp nơi đua nhau hội về, đốn cây, đào đá, chuyển gạch, chở ngói để xây nhà; khai hoang, cày ruộng, gieo trồng, chăm bón để trồng lương thực.

Xây chùa cho Tăng ở yên ổn, làm ruộng để phát triển lương thực. Vài năm gian khổ, chùa của Thiền sư Duy Chánh cũng coi như đã thâu nhận được cả trăm tăng chúng, xây được cả trăm phòng xá, khai khẩn cả trăm mẫu ruộng, thế mà Ngài lại nhẹ nhàng ra đi. Ngài bỏ lại địa vị phương trượng, lặng lẽ lên núi cao, tìm đến đạo tràng của Bách Trượng Hoài Hải, nhận chức Tây Đường dưới tướng của vị đại sư huynh này. Tây Đường là chỉ cho người đã từng trú trì một chùa khác mà nay làm khách ở chùa này. Trong lễ nghi truyền thống, dùng phía đông làm chỗ ở của chủ, phía tây là chỗ ở của khách, mời người đã thoái vị ở một tự viện khác trong chốn Thiền tông Tòng lâm vào chùa của mình, thỉnh họ ở nơi nhà phía tây để tiếp đãi họ như là một vị khách, nên có tên gọi tây Đường này. Sau này, Thiền sư Duy Chính ở lại núi Bách Trượng rất nhiều năm, cho nên trong sử gọi Ngài là ‘Bách Trượng Duy Chính’ (cũng có những điển tịch Tiền tông gọi Ngài là ‘Bách trượng Niết bàn’).

Ở trên núi Bách Trượng còn có một vị Tăng đức cao trọng vọng khác. Một hôm, Ngài đến liêu phòng của Thiền sư Duy Chính, Duy Chính tự nhiên không nói chuyện Thiền với Ngài, càng không bàn luận gì với Ngài cả, chỉ bày ra những việc hằng ngày - Mặt trời vận chuyển, ánh nắng đã chiếu qua cửa sổ, trong phòng lập tức sáng lên. Cao tăng bỗng nhiên nổi sấm giữa trời thanh, mạnh mẽ dùng lời lẽ sắc bén vấn nạn Duy Chính: “Là cửa sổ dựa gần vào mặt trời, hay mặt trời dựa gần vào cửa sổ?”

Thiền sư Duy Chánh cười nhẹ nhàng, nói: “Trưởng lão, trong phòng Ngài có khách, Ngài hãy về phòng thôi”.

Chính câu nói Thiền làm cho giông tố thành mưa xuân, chuyển lửa nóng thành mát mẽ, biến sóng dữ thành lăn tăn, đã đưa Thiền sư Nam Tuyền danh tiếng lẫy lừng đến.

Nam Tuyền Phổ Nguyện sau khi đắc pháp từ Mã Tổ Đạo Nhất vẫn thường đi các nơi tham vấn các Thiền sư nổi tiếng. Ngày hôm đó, Ngài đến núi Bách trượng, không phải đến phương trượng gặp đại sư huynh Hoài Hải mà là đi vào phòng của Thiền sư Duy Chính. Thiền giả gặp nhau chẳng có gì khách sáo, huống hồ là hai huynh đệ tâm niệm tương thông, ý chí tương hợp, cho nên Duy Chính không đợi Nam Tuyền hỏi mà hỏi trước: “Đại tông sư các nơi có thuyết pháp cho mọi người không ?”.

Câu hỏi này của Thiền sư Duy Chính, xem ra dường như rất bình thường nhưng lại ẩn chứa sự sắc sảo nhạy bén của thiền cơ, rất khó mà xướng hoạ với nó. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sau khi thành đạo, đã giảng kinh thuyết pháp bốn mươi chín năm, kinh điển lớn nhỏ thuyết ra hàng trăm hàng ngàn. Vậy mà lúc Ngài sắp lâm chung lại nói: “Bốn mươi chín năm, Ta chưa từng nói một chữ. Nếu ai nói Phật có thuyết pháp là huỷ báng Phật”.

Thế thì Phật Tổ thương xót, phổ độ chúng sanh, cuối cùng là có thuyết pháp hay không thuyết pháp? Cũng như vậy, các Đại tông sư hoằng hoá khắp nơi thì có thuyết pháp cho mọi người hay không?

Nam Tuyền gật gật đầu, nói giọng bình tĩnh: “có, có chứ!”

Nam Tuyền trả lời như vậy đúng là cao nhân, lớn gan cự phách - Biết rõ ràng trong núi có hổ mà lại đi đến núi hổ, hay là thật sự không hiểu, cho nên giống như anh chàng lỗ mãng không hành động theo lý lẽ?

Cho sai tức là sai cũng được, tự nhiên như vậy thôi, đến lúc đó, Thiền sư Duy Chính đương nhiên muốn tiếp tục hỏi tiếp: “Vậy thì thuyết pháp cho mọi người là gì vậy?”

Nam Tuyền Phổ Nguyện buột miệng nói: “Không phải tâm, không phải Phật, không phải vật”.

Liên tục phủ định ba cái như vậy, theo ý nghĩa của Nam Tuyền, biểu đạt đúng là ‘từ trước đến nay cũng chưa hề nói một chữ’, không dính mắc chút nào. Thế mà, cuối cùng Ngài vẫn dùng ‘ngôn ngữ’ để biểu đạt tầng ý nghĩa này vậy!

Đây chính là nói, ham nhìn trăng sáng trên trời, mất đi trân châu trong tay!

Bạn có biết, chổi quét lá rụng, chổi quét trần ai nhưng lại đem chổi mà in dấu xuống đất.

Chính vì như vậy, Thiền sư Duy Chính cười hì hì nói với Nam Tuyền: “Đây không phải là pháp thuyết cho người, mà ông lại nói ra rồi!”

Nam Tuyền là đại Tông sư tinh nhanh cổ quái, đương nhiên Ngài biết tuỳ cơ ứng biến. Ngài theo sau bức bách Duy Chính rằng: “Ta chỉ nói như thế, Hoà thượng, ngươi nên nói như thế nào?”

Đúng vậy, pháp không thể nói ra, ông làm sao mà nói? Xem ông ứng phó như thế nào!

Thiền sư Duy Chính tuồng như mềm nhũn, ngã xuống thiền sàng, dựa vào thiền bảng, thở dài một hơi rồi nói: “Ta chẳng phải là cao tăng, tôn túc, đại tông sư gì, làm sao ta biết có thuyết pháp hay không thuyết pháp?”

Nam tuyền theo sau làm bộ ngơ ngác nói: “Ý của ngươi ta không hiểu”

Thiền sư Duy Chính nói: “Ta đã nói với ngươi quá nhiều rồi mà”.

Câu nói này thật là đã nói quá nhiều – cũng như rùa linh dấu đuôi, càng muốn che cáng lòi ra, phải ăn ba mươi gậy!

Hoá ra, hai vị đại tông sư này đang ra sức biểu diễn cho chúng ta. Sau này, đến thời đại nhà Tống, Thiền sư Tuyết Đậu Trọng Hiển của Thiền tông Vân Môn khen công án này rằng:

Phật Tổ tự xưa không làm người,

Nạp tăng xưa nay luôn vân du.

Gương sáng làm đài thật vi diệu,

Cứ quay phía nam nhìn Bắc đẩu.

Đẩu bỉnh chiếu, khắp nơi nơi,

Vuốt được mũi, quên mất miệng.

(Phật Tổ tùng lai bất vi nhân,

Nạp tăng kim cổ cánh đầu tẩu.

Minh kính đương đài liệt tượng thù,

Nhất nhất nam diện khán bắc đẩu.

Đẩu bỉnh thùy, vô xứ thảo,

Niết đắc tỉ khổng thất khước khẩu.)

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhìn sao sáng mà ngộ đạo, từ vườn Lộc Uyển sơ chuyển pháp luân đến khi nhập Niết bàn ở Song Lâm, Ngài ra đời thuyết pháp bốn mươi chín năm, nhưng Ngài lại nói mình chưa từng nói một chữ nào. Vì sao vậy? Từ xưa đến nay, Thiền tăng vân du hành cước, đi khắp nơi tham vấn hỏi đạo ‘ý của Tổ sư từ Thiên Trúc đến’, ‘đại ý của Phật pháp’, là vì trong lòng họ còn nghi hoặc, tâm tánh chưa an. Mỗi người chúng ta đều có một tấm ‘gương cổ’ (Thiền sư ngày xưa thường lấy ‘gương cổ’ để thí dụ tự tánh), sâm la vạn tượng, dài ngắn vuông tròn, không có cái gì không phản ánh, trời đất vạn vật, lớn nhỏ nhiều ít, mỗi mỗi đều hiển hiện. Nhưng nếu chúng ta tìm sự hiểu biết trên ‘dài ngắn vuông tròn lớn nhỏ’ cuối cùng tìm chẳng thấy, cho nên Thiền sư Tuyến Đậu Trọng Hiển nói: “Gương sáng làm đài thật đặc biệt, cứ hướng phía Nam nhìn Bắc đẩu”.

Quay mặt về hướng Nam, làm sao có thể nhìn sao Bắc Đẩu? Làm sao có thể nhìn thấy sao Bắc Đẩu? Tuyến Đậu Trọng Hiển sợ chúng ta hiểu sai ý, nên nói tiếp: “Sao Đẩu bính chiếu, còn tìm nơi đâu?”. Ý là, sao Đẩu bính trong bảy sao Bắc Đẩu chiếu xuống phương Nam, bầu trời sắp xuất hiện ánh bình minh, bạn còn muốn đến đâu tìm kiếm nữa? Đừng bao giờ ‘rờ được lỗ mũi mà quên đi cái miệng’ nữa!

Liên quan đến thiền cơ: Mở Đất Ngộ Đạo

Trong sách cổ của Thiền tông, có hai thuyết liên quan đến Thiền sư Bách Trượng Duy Chính. Theo các sử sách như ‘Ngũ Đường Tập’ được tập thành vào thời Ngũ Đại (thành sách vào năm thứ mười niên hiệu Bảo Đại thời Nam Đường – năm 952 Tây lịch) và ‘Ngũ Đăng Hội Nguyên’ (thành sách vào giữa năm Nam Tống) nói Ngài là đệ tử của Mã Tổ Đạo Nhất, nhưng ‘Bích Nham Lục’ vào thời Bắc Tống (thành sách vào năm thứ bảy niên hiệu Tuyên Hoà thời Tống Huy Tông), ‘Lâm Gian Lục’ của Huệ Hồng Giác Phạm, đều nói Ngài là vị trú trì đời thứ hai ở núi Bách Trượng - tức môn nhân của Bách Trượng Hoài Hải. Hơn nữa, họ đều cho rằng Bách Trượng Hoài Chính và Bách Trượng Niết Bàn là một người. Huệ Hồng Giác Phạm chuyên môn nêu ra những văn bia do một văn nhân đời nhà Đường là Hoàng Vũ Dực soạn viết, ghi chép rất tỉ mỉ. Đồng thời văn bia này là do một trong những nhà thư pháp vĩ đại nhất trong lịch sử Trung Quốc là Liễu Công Thúc viết, nổi tiếng xưa nay cho nên càng làm tăng thêm sức thuyết phục của nó.

Người viết không phải là học giả, không có hứng thú khảo chứng gì. Sở dĩ tôi đưa ra một đoạn lịch sử lằng nhằng này là vì Hoà thượng Bách Trượng Niết Bàn có một công án ‘khai điền đại nghĩa’ rất đặc sắc.

Theo tài liệu ghi chép, Ngài xuất gia từ nhỏ, vì Ngài lấy việc trì tụng ‘kinh Niết bàn’ làm thời khoá hằng ngày, trước nay chưa hề nói pháp danh của mình cho nên mọi người gọi Ngài là ‘Hoà thượng Niết Bàn’ (nhìn ở góc độ này có lẽ Duy Chính mới là pháp danh chính thức của Ngài). Sau này, khi Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải đã viên tịch, Ngài tiếp tục đảm nhận chức trú trì chùa Bách Trượng thay Ngài Hoài Hải, vì thế gọi là Bách Trượng Niết Bàn. Trong quá trình khởi công xây dựng tòng lâm trên núi Bách Trượng, Hoà thượng Niết Bàn bỏ công sức ra nhiều nhất, công lao rất to lớn.

Ngài là trú trì ở trong Tòng lâm Thiền tông chính là tượng trưng cho Phật, nhưng Ngài lại chưa từng thuyết giảng Phật pháp cũng không khai thị Thiền yếu, mỗi ngày chỉ dẫn dắt cho các đệ tử lao động cực nhọc – khai hoang trồng trọt, xây dựng chùa chiền. Nhưng phải biết các Thiền tăng bỏ nhà xuất gia là vì liễu sanh thoát tử, thành Phật làm Tổ chứ không phải đến để làm thợ gạch ngói cho bạn! Nên hiểu rõ rằng người ta không quản dặm trường xa xôi đến quy y với bạn là vì tâm địa ngộ triệt nhân sinh, tuyệt đối không phải đến để làm anh nông dân! Phải làm thợ gạch ngói, anh nông dân thì người ta còn xuất gia làm gì?

Thế là có một ngày, sau bữa điểm tâm, các đệ tử không chuẩn bị các công cụ lao động như thường lệ nữa, mà đánh trống thỉnh chuông, tề tập tại pháp đường - thỉnh Hoà thượng thăng toà, tuyên giảng Phật pháp. Trước tình hình như vậy, Hoà thượng Bách Trượng Niết Bàn đành đến pháp đường, bước lên toà sư tử cao cao. Một vị Thiền tăng từ trong đại chúng bước ra, thưa rằng: “Đại ý của Phật pháp là gì?”

Đại ý của Phật pháp vi diệu khó mà đáp được, mở miệng là sai, động niệm là quấy, không được mảy may thành lập, há lại có thể nói được sao? Thế Bách Trượng Niết Bàn lại không chút do dự mà nói rằng, nhưng lời của Ngài cũng chỉ là: “Các ngươi đều đi cuốc đất cho ta, ta giảng thuyết Phật pháp cho các ngươi”.

Các đệ tử nghe xong liền phấn chấn tinh thần, đi khai khẩn núi hoang. Có lẽ vì lời hứa của Sư phụ, cũng có lẽ vì để nghe được Phật pháp tối diệu, bọn họ ai nấy đều mình trần xông xáo, đua nhau mà làm, mồ hôi dầm dề như mưa, những cây cuốc trong tay họ múa thành một vòng tròn sáng bạc…

Họ toàn tâm toàn ý làm việc quên mình, tất nhiên đã đem lại những thành quả to lớn. Đến lúc mặt trời xuống núi, một vùng đất mới bằng phẳng rộng lớn xuất hiện trên sườn núi. Các đệ tử vuốt những giọt mồ hôi lấp lánh trên trán, tập trung ở đầu bờ ruộng, thưa với Hoà thượng Bách Trượng Niết Bàn đang đứng trên đám đất vừa canh tác rằng: “Mở ruộng rồi, xin Hoà thượng nói đại ý của Phật pháp!”

Thiền sư Bách Trượng Niết Bàn đối diện với những cặp mắt chờ đợi, đối diện với đám đất mới toanh đầy hy vọng, chầm chậm, chầm chậm dang hai tay ra….

Ánh mặt trời đỏ rực từ sau lưng Ngài chiếu ngang qua khảm lên hình dáng của Ngài những kim quang xán lạn, giống như thân thể Ngài đang phóng ra hào quang thần kỳ vậy! Các đệ tử ngẩng đầu nhìn thần thái vừa vui vẻ vừa ôn hoà, vừa hiền từ vừa thần thánh của Sư phụ, tâm linh cảm thấy xúc động mạnh mẽ, bỗng nhiên hiểu ra lao động tức là tu thiền, sinh hoạt tức là chân đế của Phật pháp. Khen rằng:

Nam Tuyền Duy Chính xách nước kéo bùn,

Một vùng thất bại, thấu lộ thiền cơ,

Mở ruộng tu hành, hình hai mà một ,

Dang rộng hai tay, đại nghĩa mặc khế.

(Nam Tuyền Duy Chính, đới thủy đà nê.

Nhất trường bại quyết, thấu lộ thiền cơ.

Khai điền tu hành, hình nhị thực nhất.

Triển khai song thủ, đại nghĩa mặc khế.)

 (Còn tiếp)