Tổ sư Minh Đăng Quang: Tấm gương Bi - Trí - Dũng

tsmdq 19Khi có một tên tội phạm nguy hiểm vừa gây án thì lập tức có một chuyên án ra đời để đối trị, truy bắt tội phạm để đem đến sự bình an cho nhân dân. Đó là trên bình diện đời sống xã hội, còn trên bình diện đời sống tâm linh, nếu có một sự quán chiếu sâu xa hơn ta sẽ thấy ở thời đại nào các vị Phật và Bồ-tát cũng ra đời để chữa trị những căn bệnh phiền não khổ đau và thức tỉnh nhân tâm. Đức Phật Thích-ca cũng đã ra đời như thế:

“Một chúng sanh duy nhất, một con người phi thường, xuất hiện trong thế gian này vì lợi ích và hạnh phúc cho số đông, vì lòng bi mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích và hạnh phúc của chư Thiên và nhân loại”. (Kinh Tăng Nhứt A-hàm).

Đức Phật Thích-ca là một con người thật, bằng xương bằng thịt, được sinh ra từ bà mẹ cưu mang chín tháng mười ngày như bao hài nhi khác. Nhưng khi còn là một Thái tử, Ngài đã được các vị thầy giỏi dạy dỗ chu đáo tận tình các môn như văn chương, võ thuật, y khoa, nghệ thuật…Vì vậy, Ngài đã trở thành một con người văn võ toàn vẹn, sức mạnh phi thường, khó có thể gục ngã trước những chướng duyên của cuộc sống. Sau 6 năm tu khổ hạnh rừng già, Ngài tuy chỉ còn da bọc xương nhưng với một bát sữa của một tín nữ Ngài đã hồi phục và đắc đạo khi sao mai vừa ló dạng. Sự kiện đó đã mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của đạo Phật, đạo từ bi và trí tuệ. Trải qua hơn 25 thế kỷ lưu truyền, nhờ vào những vị đệ tử kế thừa xuất sắc, đã nối truyền Chánh Pháp của Ngài, trong đó có Tổ sư Minh Đăng Quang (MĐQ). Tổ sư là tấm gương sáng của Bi – Trí - Dũng cho đệ tử nối gót hành trì.

1. Bi

Bi tức là từ bi. Từ bi là ban vui, cứu khổ. Tổ sư MĐQ khi còn trẻ tuổi sống đời tại gia, Ngài được ăn học tử tế, đã tiếp thu tam giáo Thích – Đạo – Nho và luận giải một cách uyên thâm tinh tường. Khi đã thấy sự đau khổ của cuộc sống, sự loạn lạc của thời cuộc nên Ngài đã thể hiện tình thương và quyết định bôn ba ở xứ người (Campuchia) để vừa làm công quả vừa học đạo giúp đời nhằm cứu nhân độ thế.

Sau một thời gian, Ngài nhận thấy con đường làm phước giúp đời của người tại gia cư sĩ không phù hợp với tâm nguyện nên Ngài đã bái lạy thầy xin về Việt Nam. Đây là bước ngoặc trong cuộc đời của Ngài, chính nơi này nghiệp duyên xưa tái hiện, thử thách và kết thúc. Vô thường đã đánh thức tánh giác và nuôi dưỡng Bồ-đề tâm của Ngài, bài học đoạn trường là bài học vi diệu để chuyển hóa phiền não thành Bồ-đề và trợ duyên cho vị Bồ-tát viên mãn hạnh nguyện hôm nào còn dang dỡ.

Ngài đã quyết chí vượt bao chướng ngại ra đi để trở thành một vị xuất gia hành trì tu tập, Ngài thiền quán, chiêm nghiệm vạn pháp, chơn tâm hiện bày, chứng đạt lý vô thường, khổ não và vô ngã. Có không còn mất, sống chết khổ vui của cuộc đời chỉ là huyễn hóa, duyên sinh. Ngài đã sáng lý pháp “Thuyền Bát nhã” ngược dòng đời cứu độ chúng sanh. Sự kiện bừng ngộ tâm linh trọng đại này nhằm ngày rằm tháng 2 âm lịch năm 1944, khi Ngài tròn 22 tuổi. Ngài bắt đầu gieo giống đạo từ bi từ đó.

2. Trí

Đức Tổ sư MĐQ với sứ mệnh hoằng pháp cao cả, với trí tuệ tinh thông xuyên suốt, Ngài đã vận dụng một cách khéo léo để biện giải một cách vô ngại trước mọi câu hỏi của người đời, dẫu là câu hỏi của những kẻ ngoại đạo dụng tâm công kích hoặc phường tri thức nữa vời cợt nhã, giỡn chơi. Ngài luôn ứng đối linh hoạt và trả lời thông suốt. Một hôm tại Tịnh xá Ô Môn, nhân buổi thuyết pháp có người hỏi rằng:

“Bạch Ngài, mỗi vật đều có đầu có đuôi, tại sao cái cầu bắc ngang sông rạch, người ta gọi hai phía, bên nào cũng đầu cầu cả, làm sao để phân biệt đầu đuôi?”

Ngài đáp ngay:

“Có chi khó mà phải hỏi, hãy lấy mình làm chủ đích, phía nào mình để chân bước lên trước là đầu và cuối cầu bước xuống là đuôi. Đừng khi nào xét đoán sự gì mà bỏ mình ra không có gốc, theo dư luận hay tập quán thì không có chơn lý ở giải pháp đó, ví như hai người đều bước lên hai đầu cầu một lượt, thì như hai nhân trên một vấn đề không thể luận được, vì nếu tiến bước thì sẽ gặp nhau ở giữa, không thông đường; lúng túng lý và sự cũng y như thế…”

Người mang sứ mệnh hoằng pháp phải trang bị cho mình rất nhiều thứ, nhưng không ngoài hai thứ mà Như Lai đã trang bị cho họ là “từ bi và trí tuệ”. Từ bi thôi thì chưa đủ; Phải công phu tu tập nhiều để có được một khả năng biện tài vô ngại như Ngài MĐQ, với những bài pháp siêu đẳng và những câu trả lời cho những câu hỏi hóc búa về đạo cũng như đời của người đời.

Đã 61 năm Tổ sư vắng bóng, nhưng chắc chắn Ngài sẽ hài lòng với những đệ tử xuất gia cũng như tại gia của Ngài hiện nay, vì bây giờ những người con Phật đã đủ sức mang trên vai sứ mệnh hoằng pháp, tiếp nối sự nghiệp của Ngài để lại. Biết bao nhiêu tịnh xá được xây dựng lên khắp mọi nơi, đạo pháp ngày càng hưng thịnh đã đáp ứng được nhu cầu tâm linh tu học của người Phật tử mà trong lòng họ đã luôn hiếu kính, nhớ thương Ngài:

“Mượn lốt nhân sinh xuống cõi trần

Học đòi Sĩ-đạt dứt tình thân

Linh căn Thích đạo duyên ngàn trước

Rọi dấu ta bà giáo hóa dân”

3. Dũng

Tổ sư Minh Đăng Quang thường nói: “Vào thời kỳ mạt pháp, chúng sanh phước mỏng tội dày. Bậc Thánh phải chung đụng với kẻ sát nhơn; Hiền triết phải ăn ở với hạng gian tà, rồi đấu tranh chống chọi nhau xảy ra trăm ngàn việc. Sự hay dở đều có hai mặt, ai có cặp mắt tinh đời, có bộ óc sáng suốt, thông tâm lý, hiểu chánh trị, có lập trường đạo đức, khảo sát thời kỳ sẽ thấy rõ các hành vi của con người. Ngoài đời người ta dạy các thuật đấu tranh để được sống khổ; Nơi nhà đạo, tôi dạy các ông (người xuất gia) cách chết an vui.”

Tinh thần dũng cảm vô úy của Tổ sư được kể lại qua câu chuyện sau:

Ngày nọ, tại tịnh xá ở Thốt Nốt, vì thấy hạnh tu nhu hòa của các chư Tăng, kiên trì giới đức của nhà Phật, có nhóm người cường lực cạn tâm đã đến tịnh xá dùng vũ khí bao vây, quát tháo, hăm dọa coi thử bậc tu hành có sợ cái chết không?

Tổ sư Minh Đăng Quang thản nhiên trả lời với bọn họ rằng: “Quý ông cầm cái chết sẵn trong tay, sao lại không sợ mấy ông”. Và Tổ sư MĐQ nói tiếp: “Chết sống là do duyên nghiệp tùy theo nhân đã tạo mà phải chịu cái quả như thế nào; trên đời không ai thua ai hoặc sợ ai cả, có sợ chỉ sợ mình mê muội mà gây tạo tội lỗi để phải tự gánh vác lấy”.

Thời đó, chư Tăng Ni theo Tổ sư Minh Đăng Quang học đạo có trên trăm vị và Phật tử tại gia theo quy y thọ giới cũng có hơn vạn người. Tịnh xá được thành lập hơn 20 ngôi tại các tỉnh miền Đông và đồng bằng sông Cửu Long. Tổ sư du hóa hành đạo thuyết pháp độ sanh chỉ được mười năm thì Ngài thọ nạn và vắng bóng. Tuy chỉ mười năm ngắn ngủi nhưng sự nghiệp Tổ sư để lại không hề nhỏ. Ngài đã đào tạo nhiều đệ tử giỏi. Trong hàng đại đệ tử của Tổ sư có các vị Trưỡng Lão, Thượng Tọa kế tục đạo nghiệp, lập nên các giáo đoàn du Tăng đi hành đạo khắp hai miền Nam Trung (1955-1975) như quý Ngài: Giác Tánh, Giác Chánh, Giác Như, Giác Tịnh, Giác An, Giác Nhiên, Giác Lý, Giác Đức…

Phía Ni giới Khất sĩ có quý Ni trưởng, Ni Sư như: Huỳnh Liên, Bạch Liên, Thanh Liên, Kim Liên, Ngân Liên, Chơn Liên, Quang Liên, Tạng Liên, Trí Liên…

Sự kiện quan trọng là tháng 11 năm 1981, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam được thành lập, trong đó Hệ phái Khất Sĩ là 1 trong 9 thành viên thành lập Giáo hội. Đại diện hàng giáo phẩm Hệ phái được đề cử trực tiếp tham gia trong hàng Giáo phẩm Hội đồng Chứng minh Trung ương ở nhiệm kỳ nào cũng có.

Tổ sư chỉ hành đạo trong 10 năm thôi nhưng lời dặn dò của Tổ sư vẫn khắc ghi trong tâm khảm của hàng đệ tử Ngài:

“Các con hãy ở lại mở mang mối đạo, giáo hóa chúng sanh, đền ơn chư Phật, ấy là các con theo Thầy và làm vui lòng Thầy nơi xa vắng, rồi một ngày kia Thầy sẽ về”

Vâng! Thầy đã về và Thầy về ngự trong lòng các môn đệ, đệ tử, các con của Ngài. Trong những ngày lễ tưởng niệm Tổ sư vắng bóng, hàng môn đồ chúng đệ tử luôn cầu nguyện và tin tưởng:

            “Thầy về hóa giải tức thời

            Khổ đau sẽ hết, nụ cười thêm xinh

            Minh Đăng Quang, bóng an lành

            Minh Đăng Quang Ngọn đèn linh Ta-bà”

Chiều ngày 30 tháng giêng năm Giáp Ngọ (1954), khi bóng chiều phủ xuống, tại Tịnh xá Ngọc Quang (Sa Đéc), Tổ sư giã từ quý đệ tử để đi tu tịnh tại núi “Lửa” một thời gian. Rồi từ ấy đến nay, lại một vòng tuần hoàn thời gian Giáp Ngọ (2014), đúng 60 năm dài trôi qua, mấy chục mùa hoa mai vàng rụng rơi biền biệt xót xa nỗi niềm của hàng vạn vạn con tim hiếu kính, nhớ thương Tổ Thầy:

            “Mỗi năm mỗi thắp hương lòng

            Nguyện cầu Sư Tổ thoát vòng tai ương

            Trở về bên mái Phật đường

            Chuyển pháp luân độ mười phương an lành”

Trong thâm tâm người con Phật luôn khắc cốt ghi tâm thấu hiểu lời dạy quý báu sâu sắc của đức Thế Tôn:

            “Dù người ta có giết Thầy mình, mình cũng không nên hại lại”

Và lời dạy ấy vẫn còn thấm thía đối với chúng ta hôm nay:

            “Kẻ nào cột oan trái rằng – họ đã giết ta, đã đánh ta, đã thắng ta, đã cướp của ta. Oan trái của người ấy không bao giờ dứt được bởi họ đã cột chặt oan trái. Oan trái chỉ dứt được khi họ biết thành khẩn hối cải sám hối.”

Hiểu được giáo lý một cách vững chắc như vậy, chúng ta sẽ dễ dàng thiết lập được hạnh phúc cho chính mình:

            “Quỳnh trong nước mắt, sen trong lửa

            Phút nhập thần sương bạc khói lam

            Chia nẻo khói hương về tới đích

            Cả hai cũng hiện một hoa đàm”

Tổ sư đã biết trước những điều nguy hiểm sẽ xảy ra, nhưng cái “Dũng” của một vị Bồ-tát được Ngài thể hiện qua sự bình thản dấn thân vào núi “Lửa”, như một sự vượt qua hòa điệu tử sinh để đi vào con đường giải thoát tràn đầy tinh thần xả kỷ lợi tha của chư Bồ-tát, là tinh thần từ bi bất diệt của đức Phật và giáo pháp Khất sĩ.

Lời kết

Đức Phật Thích-ca có dạy: “Thay thế chư Phật đời trước mà chuyển mê khai ngộ cho tất cả mọi người”. Sứ mệnh này, Tổ sư MĐQ biết trước không phải là một việc dễ dàng. Cũng như thời đức Phật Thích-ca còn hành đạo, Ngài được rất nhiều người ủng hộ, nhưng cũng có nhiều người chống báng sỉ vả, thậm chí có người mưu sát Ngài. Tổ sư Bồ-đề Đạt-ma đem đạo Phật truyền sang Trung Quốc cũng gặp không ít khó khăn chướng ngại. Nhưng chư Phật, chư vị Bồ-tát luôn hoàn thành sứ mệnh cao cả, để cho chánh pháp của đức Thế Tôn mãi trường tồn. Tổ sư MĐQ cũng đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh hoằng pháp mà chư Phật đã giao phó.

Chỉ 10 năm thôi, cũng đủ làm nên một hệ phái Khất sĩ phát triển mạnh và nhanh, bởi tấm gương sáng: Bi-Trí-Dũng của tổ sư Minh Đăng Quang, người học trò xuất sắc của đức Từ Phụ.

Chúng ta, những người con Phật, nguyện noi theo tấm gương sáng của đức Tổ sư, tu tập ngay kẻo muộn màng:

“Thiên đàng địa ngục chẳng bao xa

Học đạo nào so bậc trẻ già

Chống gậy Kim Cang men bước tới

Cầm dây oan trái cởi lần ra

Hồng trần khổ hải là nơi tạm

Nhược thủy Bồng Lai mới thiệt nhà

Chớ bảo ruộng vườn chưa sắp đặt

Đời gần mạt kiếp mới bôn ba!!!

(Muốn tu đừng hẹn - Một vị sư Khất sĩ)