Tư tưởng Phật giáo Đại thừa của Tổ sư trong Chơn lý

Từ hàng ngàn năm qua, sự xuất hiện của các tôn giáo được xem như là một trong những hình thái biểu hiện ý thức phát triển xã hội. Chính vì vậy mà ngoài việc đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh của một bộ phận quần chúng, tôn giáo còn đóng vai trò quan trọng bởi nó ảnh h ưởng trực tiếp đến các giá trị văn hóa, đạo đức, nếp tư duy và phương cách sống của con người. Ở nước ta, tôn giáo rất đa dạng, phong phú, mang đậm dấu ấn tâm linh đặc thù của dân tộc, nhất là các tôn giáo trong lòng dân tộc.

Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nước ta bị thực dân Pháp đô hộ, chiến tranh liên tục, dân chúng lầm than, lòng người hoang mang trước một triều đình thối nát. Xen vào đó là những tư tưởng nô dịch của thực dân Pháp càng làm cho lòng người sợ hãi, mất ý chí, bỏ mặc số phận, sống cầu an với thân phận của người dân trong một đất nước đang bị nô lệ. Vào lúc này, người dân chỉ biết gởi gắm niềm tin vào đấng thiêng liêng để cầu nguyện sự bình an và từ đây, nhiều hình thức mê tín, dị đoan xuất hiện. Nhiều người lợi dụng niềm tin này đã tạo ra đủ cách thức mê hoặc để mưu cầu lợi ích cá nhân, trong đó có cả nhà sư: “Thầy chùa không hiểu đạo Phật, khinh thường giới luật, có kẻ mượn Phật làm danh, cũng ngày đêm hai buổi công phu, sóc vọng, cũng sám hối như ai, nhưng lại thủ dị cầu kỳ, học thêm bùa ngải, luyện roi thần, làm bạn với thiên linh cái, đồng nhi, ông lên bà xuống, ngáp vắn, ngáp dài, thư phù niệm chú, gọi là cứu nhân độ thế, nhưng thật ra lợi dụng lòng mê muội của thiện nam tín nữ, mở rộng túi tham, vơ vét cho sạch sành sanh[1]. Trong hoàn cảnh đau khổ như vậy, sự xuất hiện của các bậc chân tu, uyên thâm Phật học như chư vị Thích Chí Thành, Thích Thanh Kế, Khánh Anh, Khánh Hòa, Thiện Chiếu, cư sĩ Nhật Sắc… đã mang lại phần nào niềm tin Phật chánh tín cho người dân nói chung và miền Tây Nam Bộ nói riêng trên tinh thần của Phật giáo nhập thế. Cư sĩ Nhật Sắc - Thiện Thành (Nguyễn Sinh Sắc) đã nói: “Tu là phải nhập thế, phải xả thân cứu đời mới phát triển đạo được. Phật dạy, tu là cứu khổ, cứu nạn chúng sinh. Cái nạn lớn nhất là mất nước, là đem thân làm nô lệ ngoại bang. Chúng sinh hiện đang lầm than, rên siết, đã là người chân tu thì phải ra tay cứu dân, cứu nước…”[2].

Nếu như các tôn giáo khác phát triển trên nguyên tắc và truyền thống giáo điều, thì sự phát triển của P hật giáo lại khởi nguồn từ nền tảng tư tưởng đạo đức truyền thống đặc trưng của dân tộc kết hợp hài hòa với giáo lý Phật à. Trong bối cảnh xã hội vào thập niên 40 của thế kỷ XX, dù ở nước ta đã có mặt các tôn giáo nội sinh ,nhưng sự xuất hiện của Đạo Phật Khất S ĩ Việt Nam do Tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập vào năm 1944, mà ngày nay chúng ta gọi là Hệ phái Khất sĩ , vẫn có ý nghĩa quan trọng. Vậy sự ra đời của Đ ạo Phật Khất Sĩ Việt Nam mang ý nghĩa như thế nào?

Theo nhận định chủ quan của chúng tôi thì Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam là một nhánh đạo phát sinh ngay trong lòng Phật giáo tại Việt Nam .Điều đặc biệt là giáo pháp này không xuất phát từ Phật giáo Bắc t ông, Nam t ông, mà là sự kết hợp và ứng dụng hiệu quả hai nền tảng giáo lý vào con đường tu hành của Hệ phái một cách hài hòa. Chính nét đặc thù này đã khiến cho Đạo Phật Khất S ĩ Việt Nam mang nhiều ý nghĩa sâu xa và thực tiễn. T rước hết, nó đáp ứng được nhu cầu tu nhân học Phật của một bộ phận quần chúng ở miền Nam nước ta .T hứ nữa , nó đã góp phần bổ sung cho một số tôn giáo nội sinh đương thời, đồng thời định hướng cho tín đồ dễ dàng hơn trong việc hướng đến con đường giác ngộ giải thoát của đạo Phật. Sự ra đời của Đạo Phật Khất S ĩ Việt Nam là sự vận dụng một cách sáng tạo từ hai nguồn giáo lý Phật giáo Nam tông Bắc tông trong sứ mạng hoằng pháp độ sanh của Đức Tôn sư Minh Đăng Quang. Sự vận dụng linh hoạt sáng tạo này đã tạo thành nét đặc thù rất độc đáo của đạo Phật tại Việt Nam .

Sau ngày hình thành, Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam không ngừng lớn mạnh và phát triển vượt bậ c để rồi trở thành Hệ phái Khất sĩ, một trong những thành viên sáng lập của Giáo hội Phật giáo Việt Nam . Nhìn lại chiều dài lịch sử hình thành và phát triển trong suốt 70 năm qua, Hệ phái Khất sĩ đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp chấn hưng Phật giáo , vào công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam. Những kết quả vô cùng khả quan này đ ã chứng tỏ Hệ phái Khất sĩ đã hội đủ chánh kiến, định hướng và phù hợp với nhu cầu học Phật thực tiễn của một bộ phận quần chúng ở nước ta. Từ sự phát triển không ngừng cả số lượng lẫn chất lượng của Tăng Ni, Phật tử và nhất là từ những kết quả đã đạt được trong suốt 70 năm qua, chúng ta có thể mạnh dạn nói rằng, Hệ phái Khất sĩ đích thực là một tổ chức Phật giáo có khuynh hướng phát triển và rất đặc trưng của Phật g iáo tại Việt Nam.

Nhân dịp “Đại lễ Tưởng niệm 60 năm Đức Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng” , Hệ phái Khất sĩ phối hợp với Viện Nghiên cứu Tôn giáo thuộc Viện Hàn lâm Khoa học X ã hội Việt Nam và Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại T hành phố Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo kho a học với chủ đề “Hệ phái Khất sĩ: Quá trình hình thành, phát triển và hội nhập”. Để bày tỏ lòng biết ơn đối với Tổ sư Minh Đăng Quang đã tạo nên một truyền phái Phật giáo mang đậm bản sắc dân tộc Việt, cũng như ghi nhận những đóng góp của N gài nói riêng, của Hệ phái Khất sĩ nói chung với Đạo pháp và Dân tộc, chúng tôi mạo muội đóng góp cùng h ội thảo bài tham luận “Tư tưởng Phật giáo Đại thừa của Tổ sư Minh Đăng Quang trong bộ Chơn lý ”.

1. Vài nét về tư tưởng Đại thừa của Tổ sư Minh Đăng Quang

Như chúng ta đã biết, bổn hoài của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni chính là độ thoát chúng sanh ra khỏi vòng luân hồi sinh tử. T heo quan điểm Phật giáo Đại thừa, sự thành đạo của Đức Phật là kết quả của một quá trình trải qua hằng hà sa số kiếp không ngừng tu tập và thành tựu hạnh nguyện Bồ -t át vì xót thương chúng si nh. Trong khi đó , Tổ sư Minh Đăng Quang ngay từ khi bắt đầu khai sáng Đạo Phật Khất S ĩ Việt Nam, Ngài cũng đã đề cao mục đích độ sanh với tâm nguyện “Nối truyền Thích -c a C hánh pháp”. Đây là mục đích tối hậu để hình thành nên Hệ phái Khất sĩ ngày nay. Qua đó chúng ta có thể khẳng định tư tưởng vì lợi lạc quần sanh, với tâm nguyện noi gương Phật T ăng xưa “Nối truyền Thích-c a Chánh pháp”, chính là tư tưởng Đại thừa của một bậ c Tổ sư khai sáng.

Xuất phát từ tâm nguyện “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp”, cùng với sự hình thành của Đạo Phật Khất S ĩ Việt Nam là sự ra đời của bộ Chơn lý, gồm 69 tiểu phẩm, nội dung chứa đựng sự hài hòa phối hợp giữa hai luồng tư tưởng Phật học Bắc truyền và Nam truyền. Đồng thời sự vận dụng linh hoạt tư tưởng Đại thừa vào đời sống tâm linh của Hệ phái đã tạo nên ấn tượng mạnh mẽ trong quần chúng Phật tử và trong giới học Phật đương thời về một bậc Tổ sư xuất hiện tại Việt Nam trong thời kỳ chấn hưng Phật giáo ở nửa đầu thế kỷ XX.

Tư tưởng Đại thừa nối truyền Thích-ca Chánh pháp nhằm lợi lạc quần sanh của Tổ sư Minh Đăng Quang ngày càng phát triển sâu rộng trong đời sống tâm linh của Phật tử và Tăng Ni trong Hệ phái Khất sĩ. Ở đây , chúng ta có thể nói ngắn gọn, tư tưởng Đại thừa của Tổ sư Minh Đăng Quang đã được thể hiện một cách sống động qua hai nội dung căn bản của Hệ phái Khất sĩ, đó chính là “Pháp” và “Tăng”. “Tăng” là sự kế thừa hành trạng của Phật Tăng xưa, hội nhập và phát triển không ngừng để rồi trở thành Hệ phái Khất sĩ ngày nay. Còn “Pháp” được xem là tư tưởng Đại thừa được dàn trải đều khắp trong bộ Chơn lý. Cũng ngay trong bộ Chơn lý, Tổ sư Minh Đăng Quang đã rất coi trọng Pháp bảo: “Pháp bảo là thầy của Phật, là thầy của Tăng và chúng sanh. Vậy nên chúng ta mau mở trí ra mà chứa đựng Pháp bảo. Vì trong đời Pháp bảo là quý hơn hết”[3]. Đây cũng là nội dung chính mà chúng ta sẽ bàn sâu vào trong phần kế tiếp của tham luận này.

Tư tưởng Đại thừa thường được thể hiện qua tâm lượng, hạnh nguyện và việc làm cụ thể trong quá trình nhập thế độ sanh. Do vậy, một khi nói đến tư tưởng Đại thừa của Tổ sư Minh Đăng Quang, chúng ta không thể không nói đến hành trình dấn thân nhập thế độ sanh của N gài.

Như chúng ta đã biết, vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đất nước ta bị thực dân Pháp đô hộ, chiến sự triền miên, lòng người ly tán, trình độ dân trí của quần chúng chưa cao, hiện tượng mê tín dị đoan phát triển tràn lan .Trong bối cảnh đó , tại các tỉnh Nam B ộ xuất hiện các tôn giáo nội sinh chủ yếu khuyên răn người đời làm lành lánh dữ, ăn chay niệm Phật .Đ an xen với xu hướng tâm linh chưa nhất quán rạch ròi là những tư tưởng nô dịch của thực dân Pháp .Đ iều này khiến cho lòng người thêm hoang mang , mơ hồ, mờ mịt không chỗ dựa. Trước tình cảnh điêu linh thống khổ này , Tổ sư Minh Đăng Quang xuất hiện và Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam đã ra đời.

Sự có mặt kịp thời của Đạo Phật Khất Sĩ do Đức T sư Minh Đăng Quang khai sáng vào thời điểm này, trước hết đã định hướng phương thức tu học Phật một cách cụ thể, phù hợp với căn cơ trình độ của đại đa số quần chúng đang khao khát con đường giải thoát, khai thông sự bế tắ c trong đời sống tâm linh, tạo được niềm tin và sự phấn khởi của quần chúng Phật tử đối với đạo Phật đương thời . Điều này đã góp phần to lớn trong công cuộc chấn hưng Phật giáo trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ .

Tinh thần vì lợi ích tha nhân mang hạnh nguyện nhập thế độ sanh của tư tưởng Đại thừa Phật giáo từng được Đức Phật chỉ dạy cho các vị Tỳ -kheo trong G iáo đoàn của Ngài: “Này các Tỳ-kheo, hãy đi khắp nơi vì lợi lạc và hạnh phúc của số đông, do lòng từ bi đối với cuộc đời, vì lợi lạc và hạnh phúc của trời và người [4]. Minh chứng về tư tưởng Đại thừa của Tổ sư Minh Đăng Quang, chúng ta có thể nhận thấy trong quá trình hoằng pháp lợi sanh, dù chỉ thời gian rất ngắn ngủi, vỏn vẹn 10 năm (1944 - 1954) , vậy mà Đức Tôn sư Minh Đăng Quang đã thành tựu nhiều Phật sự rất đáng trân trọng. Xuất phát từ tư tưởng Đại thừa, với tâm niệm “Nối truyền Thích -ca C hánh pháp” , rộng mở đạo tràng, phổ độ thế nhân v con đường Chánh pháp, đoàn D u Tăng Khất sĩ đã theo gót chân N gài tỏa đi khắp mọi nơi .Đ ến nơi nào thì thâu nhận thêm môn đồ, đệ tử nơi đó ; cứ thế, chỉ trong một thời gian ngắn, đoàn Du Tăng càng ngày càng phát triển lên đến cả trăm vị , hệ thống tịnh xá được xây dựng khắp cả miền Nam và mở rộng ra đến các tỉnh miền Trung. Có thể nói, sự hình thành nhanh chóng của đoàn D u Tăng Khất sĩ và quần chúng Phật tử nương theo chư Tăng Khất s ĩ tu học phát triển một cách rộng khắp là một minh chứng hùng hồn và thuyết phục về tinh thần nhập thế độ sanh của tư tưởng Đại thừa Phật giáo.

Thứ nữa, các đặc điểm của Hệ phái Khất sĩ thông qua phương cách tổ chức, điều hành Giáo đoàn, công tác Phật sự, nghi thức hành lễ, sinh hoạt tu học cho đến các chi tiết nhỏ như cách ăn mặc, pháp phục… là cả một sự vận dụng uyển chuyển linh động rất tinh tế, vừa mang tính kế thừa chân truyền của Phật Tăng xưa, lại vừa mang tính sáng tạo năng động phù hợp với điều kiện thực tế và hoàn cảnh thời đại. Đây là nét độc đáo của tư tưởng Đại thừa mà Tổ sư Minh Đăng Quang đã ứng dụng rất thành công trong Hệ phái Khất sĩ. Do vậy, trước sự lớn mạnh không ngừng của Hệ phái Khất sĩ trong suốt 70 năm qua đã cho chúng ta thấy rằng, Tổ sư Minh Đ ăng Quang rất tích cực trong công cuộc chấn hưng Phật giáo, nhất là trong giai đoạn Phật giáo nước nhà đang gặp khó khăn do hoàn cảnh lịch sử và do cả yếu tố chủ quan ngay trong lòng Phật giáo thời bấy giờ.

Nói đến Đại thừa Phật giáo, thiết nghĩ chúng ta cũng cần làm rõ thuật ngữ này một cách chuẩn xác sao cho phù hợp với tình hình thực tế. Như chúng ta đã biết, vào năm 1950, Đại hội Phật giáo Thế giới khai mạc ở Colombo đã chính thức đưa ra quyết định xóa bỏ h n danh từ Phật giáo Tiểu thừa, vì nó không còn phù hợp với tình hình thực tiễn, nhất là ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của đạo Phật tại một số nước như Tích Lan, Thái L an, Miến Đ iện, Campuchia, Lào… Tuy nhiên , kể từ đó đến nay trong sinh hoạt Phật giáo, chúng ta vẫn còn sử dụng thuật ngữ Phật giáo Đại thừa một cách rộng rãi trong giáo lý và trong nội dung hoằng pháp. Do vậy , với sự tồn tại của cụm từ Phật giáo Đại thừa chúng ta nên hiểu, đó không phải để so sánh hay đối lập với cụm từ Phật giáo Tiểu thừa , mà nó hàm ý chỉ về sự dấn thân nhập thế độ sanh theo khuynh hướng phát triển. Bởi hai chữ Đại thừa ở đây mang ý nghĩa là tâm lượng lớn, tầm nhìn lớn, hạnh nguyện lớn. Tất cả những phẩm chất cao quý này đều có sẵn và luôn có cơ hội phát triển trong tâm thức của mỗi người con Phật dù họ đang có duyên gắn kết với bất kỳ một tông phái nào trong ngôi nhà Phật giáo.

Xuất phát từ khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu theo một cách nhìn khác súc tích hơn, Đại thừa chính là sự khéo léo tùy duyên, thuận theo tình cảnh, linh hoạt diệu dụng để làm tốt hơn nữa sứ mạng hoằng pháp lợi sanh. Và điều này Tổ sư Minh Đăng Quang đã rất thành công trong việc tổ chức, điều hành, phát triển G iáo đoàn trong suốt thời gian N gài tại thế. Thật vậy, khi nhìn vào những đặc điểm nổi bật trong tổ chức cũng như quá trình phát triển Giáo đoàn của H ệ phái Khất sĩ, chúng ta cũng không thể ngờ trước sự vận dụng rất sáng tạo và kết hợp hài hòa giữa hai truyền thống Phật giáo Nam t ông Bắc t ông của Tổ sư Minh Đăng Quang. Chẳng hạn đối với việc kế thừa truyền thống Phật giáo Bắc t ông, Tổ sư Minh Đăng Quang đã thực hiện việc ăn chay nhằm tăng trưởng lòng từ bi thương xót muôn loài cũng như trợ duyên cho công phu tu tập ; trong công tác tổ chức Giáo đoàn , Ngài đã thâu nhận đệ tử nữ, cho họ xuất gia hình thành Ni đoàn của Hệ phái. Về mặt giáo lý, N gài đã giảng thuyết một số kinh như Kinh Pháp Hoa, Kinh A-dià … để triển khai về các khái niệm Chân n hư, Phật tánh . Đối với việc kế thừa truyền thống Phật giáo Nam tông, N gài đã chọn hình thức y bát, khất thực, ăn đúng giờ ngọ theo truyền thống Phật Tăng xưa. Về mặt giáo lý, N gài đã nêu cao tinh thần Y bát chơn truyền, cũng như chú trọng con đường tu tập hướng đến đạo quả tối thượng là A -l a-hán.

Một đặc điểm nổi bật nữa, đó là sự thực hành Tứ yp háp Trung đạo, nghĩa là người xuất gia chỉ được ăn thực phẩm khất thực được, tuy nhiên , vẫn có thể được thọ thực tại tịnh xá vào những ngày lễ hội hay thuyết pháp . Người xuất gia đúng l uật Khất sĩ chỉ y bá t, tuy nhiên , vẫn có thể tùy nghi nhận pháp phục nếu có người dâng cúng . N gười xuất gia phải nghỉ dưới cội cây, nhưng vẫn có thể cư ngụ nơi am cốc nếu có thí chủ cúng dường . N gười xuất gia trong khi đau vẫn được dùng thuốc men nếu có người cúng. Tuy nhiên , do hoàn cảnh và điều kiện xã hội, tinh thần Tứ y pháp Trung đ ạo ng ày nay đã mai một, nhưng chính sự cách tân để thuận theo thời đại cũng đã nói lên hướng tích cực nhạy bén trong tư tưởng Đại thừa của Tổ sư Minh Đăng Quang. Đ ó chính là sự uyển chuyển linh động phù hợp với tình hình thực tiễn, nhằm đáp ứng nhu cầu tu hành và hoằng pháp lợi sanh.

2. Tư tưởng Phật giáo Đại thừa trong bộ Chơn lý

Trước hết chúng tôi xin đưa ra nhận định, bộ Chơn lý là bộ giáo lý đầu tiên của Phật giáo Khất sĩ tại Việt Nam hoàn toàn được Việt hóa, là bộ giáo lý đầu tiên đã kết hợp và dung hòa hai nền tảng giáo lý Phật giáo Bắc tông và Nam t ông. Đây là nét độc đáo đầu tiên về mặt giáo lý của Hệ phái Khất sĩ.  

Tổ sư Minh Đăng Quang thành lập Đạo Phật Khất Sĩ trong bối cảnh đất nước ta bị thực dân Pháp đô hộ, lòng người ly tán, trình độ dân trí của quần chúng còn thấp kém, hiện tượng mê tín dị đoan phát triển tràn lan… Thập niên 30 - 45 là thời kỳ đất nước ta chịu dưới hai tầng áp bức n a thực dân, n a phong kiến, các nhà địa chủ, cường hào ác bá ra sức áp bức bóc lột những người làm thuê, làm mướn. Trong hoàn cảnh cơ cực như thế , chỗ dựa tinh thần duy nhất cho mọi người là tôn giáo. Nhưng trong giai đoạn này, Phật giáo Việt Nam cũng suy vi đến mức độ cùng cực: “Các cảnh chùa trong nước đã trở thành là những cảnh gia đình riêng, không còn gì là tính cách đoàn thể của một tôn giáo nữa. Họ sống trong Phật giáo chỉ còn là dốt và quên! Quên để khỏi biết đến bổn phận, bổn phận chơn chánh của một người Tăng đồ …”[5]; Phật giáo hiện thời đã có phần chấn hưng, nhưng có một trở lực mà chưa có hội nào, hay một sơn môn nào giải quyết, đó là cổ động thì hội nào cũng cổ động bằng quốc văn là nền văn phổ thông, nhưng kho tàng, kinh điển triết lý nhà Phật thì còn nằm nguyên khối bằng Hán văn. Vả lại, dấu tích điêu tàn của ngày qua hiện nay vẫn còn lưu hành rõ rệt và có thế lực, nên thật ra cả mấy hội Phật học ấy ngoài mấy việc xây hội quán, làm chùa và cổ động một số đông người qui y, còn chưa hội nào làm được việc gì vĩ đại có vẻ đỉnh cách cho nền Phật giáo cả. Trong lúc này, đại đa số Tăng đồ trong các sơn môn vẫn đương mơ màng thiêm thiếp, chưa làm một việc gì tỏ rõ là người thức tỉnh. Cho nên, tuy hiện giờ có phong trào chấn hưng mà kỳ thật mới là chấn hưng hình thức và danh hiệu[6].

Trong hoàn cảnh như vậy, bộ Chơn lý đã được Tổ sư Minh Đăng Quang hướng đến những mục tiêu gắn liền với yêu cầu nhận thức và tu tập của giáo đoàn, đồng thời định hướng cho đa số quần chúng có nhu cầu tìm hiểu về giáo lý nhà Phật dễ dàng cảm nhận những tinh hoa của Phật pháp. Mặt khác, hệ thống giáo lý Phật à thông qua bộ Chơn lý đã được cô đọng một cách súc tích bằng lối diễn đạt gần gũi, dễ hiểu, mà không làm lệch đi chánh kiến cũng như không mất đi chánh nghĩa, vì vậy, bộ Chơn lý sớm trở thành kim chỉ nam tu hành cho chư Tăng N i cùng Phật tử của Hệ phái Khất Sĩ trong suốt gần bảy thập niên qua. Đây cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ giáo lý của H ệ phái Khất S ĩ có tên Chơn lý.

Như chúng tôi đã trình bày, tư tưởng Đại thừa là tư tưởng vì lợi ích tha nhân, tư tưởng này xuất phát từ hạnh nguyện độ sanh và hoằng dương Chánh pháp . Đặc biệt, tư tưởng này lại luôn sẵn sàng trong hành trang của mỗi người con Phật, do vậy , không riêng gì đối với H ệ phái Khất sĩ mà đối với tất cả tông phái khác cũng luôn hướng đến mục đích “ cứu khổ chúng sanh là cúng dường chư Phật” và lấy đó làm lý tưởng sống đạo. Mặt khác, tư tưởng Đại thừa nay đã không còn đối tượng Tiểu thừa để so sánh hay biện chứng, chính điều này, chúng ta nên tìm hiểu về tư tưởng Phật giáo Đại thừa trong bộ Chơn lý ở góc độ những nét đặc thù của nội dung giáo lý Phật à đã được Tổ sư Minh Đăng Quang chuyển ngữ thành công nhất là vì lợi ích cho tha nhân.  

Trên tinh thần vận dụng rộng rãi giáo lý Phậtà theo nguyên tắc khế lý khế cơ, nghĩa là trên hợp với Phật lý, dưới ứng với căn cơ của các tầng lớp quần chúng khác nhau trong đời sống xã hội, không ngoài mục đích dẫn dắt người đời quay về nẻo giác, do vậy , trong bộ Chơn lý, Tổ sư Minh Đăng Quang đã phủ nhận ngay những ý niệm phân biệt, phân chia giữa các tôn giáo có nền móng từ bản ngã, đồng thời nêu cao tinh thần hòa hợp vì mục đích lợi tha . Tư tưởng Đại thừa này đã được Tổ s ư khẳng định: “Đạo là con đường của tất cả chúng sanh chứ không có tên gì cả. Giáo là sự dạy học để tu hành chứ không phải tôn giáo gì cả. Phái là sự làm việc, giúp ích cho nhau chứ không phải phái gì cả[7] . Tầm nhìn xa trông rộng và với tấm lòng tha thiết độ sanh xuất phát từ tư tưởng Đại thừa, ngay từ những ngày đầu hành đạo, Tổ s ư đã mong m i sự thống nhất trong ngôi nhà Phật giáo ngõ hầu lợi lạc quần sanh : Sự thống nhất Tăng đồ nhà Phật trên thế giới lại, để cứu thế, lập Niết-bàn hiện tại cho phải dịp… không có Đại hay Tiểu thừa gì, không có chia rẽ hơn thua chi chi nữa [8]. Tư tưởng Đại thừa trong bộ Chơn lý càng thể hiện rõ nét hơn khi Tổ sư đưa ra nhận định về Chơn lý: “Chơn lý là trường học chung của tất cả.Chơn lý không phải là đời hay đạo. Chơn lý không phải là tông giáo hay đảng phái, chủ nghĩa, giáo phái nào! [9]. Khi nói về đạo Phật, thông qua quyểnĐạo Phật ”, Ngài diễn đạt rất ngắn gọn nhưng đã nói lên đầy đủ ý nghĩa, mục đích cũng như bản chất của đạo Phật: “Quyển Đạo Phật này có ra là để chỉ rõ con đường giác ngộ, bởi giác ngộ mới là đạo Phật. Quyển Đạo Phật này ra đời với tính cách siêu nhiên, không cần dư luận, không thiên tư, không chỉ trích. Mà chơn lý, công lý, chỉnh đốn chấn hưng, giác ngộ, khuyến khích theo ý muốn của khắp người người [10].

Thật ra, tinh thần Đại thừa là kế thừa nền tảng căn bản của giáo lý và vận dụng nó một cách trí tuệ để khơi nguồn tuệ giác tuôn chảy vào đời sống nhân gian, chứ không phải cải biên, thay đổi hay hiện đại hóa, vì lẽ đó cho nên những lời dạy vàng ngọc của Đức Phật đã được bảo lưu toàn vẹn trong suốt trên 2. 550 năm qua .T uy nhiên , để đáp ứng nhu cầu tu tập cho Tăng N i trong G iáo đoàn, Tổ sư Minh Đăng Quang đã khéo léo trong việc truyền đạt nội dung, chẳng hạn đối với giới xuất gia, khi định nghĩa về Khất sĩ, N gài đã sử dụng ngôn ngữ thật bình dị, dễ hiểu nhưng vẫn lột tả được tinh thần giải thoát của Khất sĩ . Các ngài nói mình Khất sĩ là để giữ cái gốc vốn chơn như không tham vọng. Các ngài nhớ mình Khất sĩ là để cho ý muốn tham chẳng còn sanh. Các ngài thực hành Khất sĩ là để cho thấy rõ cái không không của tham vọng. Khất sĩ là giải thoát trói buộc, phiền não vô minh vọng động, để sống bằng chơn như, trí tuệ, an lạc, thong thả, rảnh rang không còn tạo nghiệp thì luân hồi sanh tử, khổ não mới đặng dứt [11]. Cũng nói về Khất sĩ, nhưng trong một đoạn khác, N gài đã nêu lên hành trạng và bản hoài của hành giả Khất sĩ rất sâu sắc: “Người thật hành đúng theo chơn lý gọi là Khất sĩ. Khất ấy là xin, Sĩ đây là học. Xin ấy rồi lại cho, học đây rồi lại dạy, xin thực phẩm để nuôi thân giả tạm, cho sự thiện lành bằng phước đức để bảo giữ sự sống dài lâu [12].

Còn đối với giới cư sĩ tại gia, Ngài đã khuyên răn họ đừng quá chạy theo đời sống vật chất thế gian mà hãy thực hiện một đời sống tri túc: “Ở đời có vật chất cũng chết khổ, không có vật chất cũng chết khổ. Trong lúc đang làm cũng chết khổ, lúc chưa có cũng chết khổ. Chi bằng chúng ta hãy làm để đủ nuôi sống vừa thôi, mới là không chết khổ[13]. Ở đây chúng ta nhận thấy rằng, dù là dạy cho giới cư sĩ tại gia nhưng Ngài đã khéo léo gieo vào tâm thức họ hạt giống xuất gia rất tinh tế và gần gũi với đời sống, bởi “tri túc” là một trong những phẩm hạnh của giới xuất gia . Như trong Kinh Di giáo , Đức Phật đã giáo huấn chư vị Tỳ -kheo về hạnh “biết đủ” như sau: “Các thầy Tỷ-kheo, muốn giải thoát khổ não thì các thầy hãy cứu xét sự biết vừa đủ. Chính sự biết vừa đủ là giàu sang, vui thú và yên ổn. Biết vừa đủ thì nằm trên đất cũng thấy vui thích, không biết vừa đủ thì ở thiên đường cũng vẫn bất mãn. Không biết vừa đủ thì giàu mà nghèo, biết vừa đủ thì nghèo mà giàu. [14]. Cũng qua lời dạy về hạnh biết đủ, Tổ sư Minh Đăng Quang như ngầm nhắc nh các vị Tỳ- kheo trong G iáo đoàn, nếu đã xuất gia rồi mà còn m i mê tạo tác thì cũng không khác gì người chưa xuất gia.

Giới luật là nền tảng căn bản của đạo Phật, giới luật còn thì Phật pháp còn, điều quan trọng này đã được Đức Phật căn dặn chư vị Tỳ- kheo trong Kinh Di giáo : “Giới thì chính thuận với căn bản của sự giải thoát, nên Như Lai mệnh danh Ba-la-đề-mộc-xoa. Nhờ giới mà phát sinh thiền định, và trí tuệ có năng lực hủy diệt thống khổ.Thế nên, các thầy Tỷ-kheo, hãy giữ tịnh giới, đừng cho vi phạm, thiếu sót. Ai giữ tịnh giới thì người đó có thiện pháp. Không có tịnh giới thì mọi thứ công đức không thể phát sinh. Do đó mà biết tịnh giới là chỗ yên ổn nhất, làm nơi trú ẩn cho mọi thứ công đức… Các thầy Tỷ-kheo, sau khi Như Lai diệt độ, các thầy phải trân trọng tôn kính tịnh giới, như mù tối mà được mắt sáng, nghèo nàn mà được vàng ngọc. Phải biết tịnh giới là đức thầy cao cả của các thầy. Nếu Như Lai ở đời thì cũng không khác gì tịnh giới ấy… [15]. Nhận thấy sự hệ trọng của giới luật ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của Phật pháp nói chung và của Hệ phái Khất sĩ nói riêng, nên ngay khi thành lập G iáo đoàn, Tổ sư Minh Đăng Quang đã thiết lập hệ thống giới luật Khất s ĩ, giúp cho các mặt hoạt động Tăng đoàn sớm đi vào nề nếp ổn định và làm nền tảng để phát triển H ệ phái một cách bền vững. Luật Khất sĩ gồm có Giới bổn Tỳ -kheo, Giới bổn Tỳ - kheo -ni, giới Phật tử (thường gọi là giới Bồ - tát), Bài học Sa -di (môn oai nghi và những bài kệ chú nguyện), Pháp học Sa - di (Kệ giới, Mười giới tập sự Sa-di, Tứ y pháp Trung đạo), Bài học Khất sĩ (Nghi thức thọ trai và Nghi thức tụng kinh đều được Tổ sư biên soạn, tất cả đều lấy theo tinh thần của Luật Đàm -vô ức bộ, Tỳ -kheo Tăng 250 giới, Tỳ - kheo -ni 348 giới… ).

Thông qua hệ thống giới luật Khất sĩ trong bộ Chơn lý , chúng ta thấy rất rõ là Tổ sư Minh Đăng Quang rất chú trọng đến giới luật, điều mà chúng ta cần bàn ở đây. N gài vừa kế thừa nền tảng giới luật Phật T ổ để lại một cách cẩn trọng nghiêm túc, lại vừa uyển chuyển để phù hợp với căn cơ cũng như hoàn cảnh của người học Phật thời nay. Cách Việt hóa bộ luật thành chữ quốc ngữ và chọn lọc sắp xếp gọn gàng dễ hiểu cũng là nét đặc biệt đã chứng minh khuynh hướng Đại thừa rất khế cơ , khế lý mà Tổ sư đã thể hiện sinh động trong bộ Chơn lý .

Trong sự nghiệp tu hành của bất kỳ hành giả nào trên con đường giác ngộ, quả vị luôn là mục đích tối thượng. Trong bộ Chơn lý , Tổ sư Minh Đăng Quang đã làm rõ các khái niệm Chơn như, Phật tánh, đồng thời cũng rất chú trọng đến con đường tu tập hướng đến đạo quả A -l a-h án. Khi nói về quả vị A -l a-h án, trong bộ Chơn lý , Ngài đã diễn đạt: “A-la-hán là bậc mà không còn sự vui khổ của bên ngoài trần thế, là bậc mà tâm sống với cái thật, cái không vọng động, vô vi của bề trong. Cái sống ấy mới thật gọi là bền vui và có được [16]. Trong khi đó, trong Kinh Pháp Hoa , Đức Phật đã nêu lên ý nghĩa giải thoát của các bậc A-la -hán: “Các vị đó đều là các bậc A-la-hán, các lậu đã hết, không còn phiền não, việc lợi mình đã xong, dứt sự ràng rịt trong các cõi, tâm được tự tại” [17]. Ở đây, chúng ta nhận thấy trạng thái giải thoát của các bậc A -l a -hán mà Tổ sư Minh Đăng Quang diễn tả rất gần gũi với đời sống con người , nhưng không mất đi chánh nghĩa như trong kinh văn Đức Phật đã tuyên thuyết. Còn nói về Chơn n , Phật t ánh, trong Kinh Pháp Hoa, Đức Phật đã dạy: “Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, đức vô lượng vô ngại lực, vô sở úy, thiền định, giải thoát tam muội, đều sâu vào không ngằn mé, trọn nên tất cả pháp chưa từng có”[18]. Đức Phật cũng đã nói về Chơn như, Phật tánh, trong một đoạn kinh khác: “Pháp đó không phải là suy lường phân biệt mà có thể hiểu được, chỉ có các Đức Phật mới biết được đó. Vì sao? Các Đức Phật Thế Tôn chỉ do một sự nhơn duyên lớn mà hiện ra nơi đời…[19]. Trong khi đó, Tổ sư Minh Đăng Quang đã đề cập đến ý nghĩa Chơn n, Phật tánh như sau: “Thấy tánh thành Phật,mà thấy tánh là thấy cái chơn như, không vọng động, thấy cái giải thoát các pháp, các sở chấp, do sự giác ngộ trí huệ là Phật của mình; chớ chẳng phải thấy bằng nói, nghe, chữ viết, suy gẫm tưởng tượng [20]. Ở đây, chúng ta nhận thấy những điều mà Tổ sư Minh Đăng Quang nói về Phật t ánh , Chơn n hư, Ngài cho rằng “chẳng phải thấy bằng nói, nghe, chữ viết, suy gẫm tưởng tượng”, đó là một cách diễn đạt lại lời Phật dạy trong Kinh Pháp Hoa: “Pháp đó không phải là suy lường phân biệt mà có thể hiểu được”…

Tổ sư Minh Đăng Quang cũng đề cập đến các khái niệm về Thiên đường, Tây phương, Tịnh độ, Tịnh thổ, Niết -bàn. Thời bấy giờ, mọi người đều cho các khái niệm trên là một, có thể dùng lẫn nhau. Phải nói là trong thời buổi nhi u nhương, đói khổ, mọi người đều ngưỡng vọng về một thế giới ấm no, hạnh phúc, nên gần như không quan tâm nhiều đến các khái niệm xa vời thực tế này. Nhưng theo các nhà Phật học đương thời , thì đó là các khái niệm khác nhau. Một số nhà nghiên cứu gọi Thiên đường là Niết - bàn, gọi địa ngục là ngục tối, cách gọi này cũng dễ khiến người ta ngộ nhận, dễ dẫn đến mê tín, ảo tưởng. Trong khi các nhà Phật học tiến bộ đã phê phán và đưa ra luận điểm của mình, nhưng vẫn còn nhiều tranh luận về t hế giới Cực lạc thực chất đó là gì? Nó có ở đâu? Con người làm thế nào để đạt tới?...

Thật ra, thế giới Tây phương Cực lạc là một vấn đề vô cùng nhạy cảm chỉ có ở những người vốn có niềm tin tâm linh sâu sắc mới có thể tin n i, còn người chưa thấu tỏ giáo lý Đại thừa thì e rằng khó có thể tin được . Thế nhưng đây lại là thế giới chính kim khẩu của Đức Phật Thích -c a đã nói ra, mà lời dạy của Đức Phật chơn thật bất hư . Do đó, để cụ thể hóa thế giới này thật gần với đời sống con người, sao cho thật dễ hiểu để dễ tu tập, Tổ sư Minh Đăng Quang đã viết trong bộ Chơn lý : “Thế giới Tây phương Cực lạc của chư Phật cũng là một quả địa cầu tứ đại, cỏ, cây, thú, người, thân sắc có đủ y như các quả địa cầu thế giới khác. Nhưng chỉ có tâm của các hạng bậc ấy là không giống với tâm của chúng ta thôi. Tâm chúng ta nơi đây thì khổ, còn tâm các ngài nơi đó lại vui. Cái vui của các ngài là do kỷ luật, giới răn, còn cái khổ của chúng ta là tại tuôn trào, lướt bụi đầu đuôi bất kể [21].

Như vậy, với Tổ sư Minh Đăng Quang, Tây phương Cực lạc là một xứ sở ở đó con người sống có giới luật, giới năng sanh định, định năng minh tâm, minh tâm thì kiến tánh, mà kiến tánh tức là thành Phật. Một cách giải thích hết sức hợp tình, hợp lý, không những khế cơ, khế thời mà còn khế lý, nhất là giúp cho mọi người tin Phật sớm nhận được tự tánh của chính mình là tự tánh Di-đà , để họ nỗ lực, tinh tấn xây dựng cõi nhân gian đầy khổ đ a u thành thế giới an lạc, đúng với câu: “Phật hiệu Dià, pháp giới toàn thân tùy xứ hiện. Quốc danh Cực lạc, Tịch Quang chơn cảnh cá trung huyền ”.

Sinh thời, Tổ sư Minh Đăng Quang chủ trương nối truyền Thích-c a Chánh pháp, nên tinh thần L ục hòa cộng trụ của Phật Tăng xưa rất được Ngài chú trọng áp dụng vào sinh hoạt của Giáo đoàn. C hính vì vậy mà Tổ sư đã kêu gọi các đệ tử: “Nên tập sống chung tu học; Đạo của sống là xin nhau sống chung; Đạo của biết là học chung; Đạo của linh là tu chung” [22]. Đặc biệt, phẩm chất đạo đức và giới hạnh luôn được N gài xem trọng, có thể nói đây là vấn đề hàng đầu trong đời sống chư Tăng Ni và Phật tử; chính vì vậy, trong bộ Chơn lý, Đức Tổ sư đã dạy: “Chỉ có đạo đức mới có hòa bình, bằng không đạo đức thì chẳng có hòa bình, mà là những hòa bình tạm dối, không bền chặt [23]. Qua đó, N gài khẳng định muốn đem lại sự hòa bình, độc lập, tự do cho dân tộc thì phải có sự góp phần của những nhà đạo đức chơn chánh, và đây chính là nguyên lý tất yếu. Ngài dạy: “Trong trường hợp Tăng-già chia rẽ…, thì lột áo Tăng-già, ấy không phải là vì ghét giận. Trong trường hợp Tông phái phân ranh…, thì việc đốt bàn thờ tông phái, không phải là vì ghét giận. Trong xã hội cũng vậy, một xã hội loạn ly, không thiện lành trong sạch, đàn áp phá sản thì chuyện bàn tay bóp chặt lọc dính lại, ấy không phải là sự ghét giận, mà là để chỉnh đốn xã hội tiến bộ… [24], hay: “Thế thì nào tài trí, đức hạnh há phải chỉ đứng bên ngoài hay sao?[25] .Điều này cho thấy Tổ sư là một người có tư tưởng tiến bộ, đã lập ra một luận cứ vừa khế cơ, vừa khế lý .Đặc biệt , Ngài kêu gọi sự sống chung hòa hợp, đoàn kết, không phân biệt tông phái để góp phần đem lại sức mạnh, vừa trang nghiêm Tăng đoàn, vừa thanh lọc xã hội, qua đó góp phần giành lại độc lập tự do cho dân tộc bằng đạo đức, bằng sự chấn hưng Phật giáo.

Cũng cần nói thêm rằng trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, Phật giáo đang phải đối diện với quan điểm “Thượng đế là đấng sáng tạo ra vạn hữu”, nghĩa là con người sống hoàn toàn không có khả năng giác ngộ, giải thoát, mà lệ thuộc vào đấng tối cao. Trên quan điểm này, Tổ sư Minh Đăng Quang đã đưa ra định nghĩa về Phật rất cụ thể và mang tính thuyết phục cao:

                                      Thân trong sạch ấy là xứ Phật.

                                         Miệng trong sạch ấy là pháp Phật.

                                         Ý trong sạch ấy là con Phật.

                                         Tâm trong sạch tức là Đức Phật.

Như thế thì ai ai cũng sẽ là Phật hết. Phật ấy tức là tam nghiệp trong sạch, cho nên tu là trả nghiệp, tu là đoạn nghiệp”[26].

Qua đoạn văn trên, Đức Tổ sư đã khẳng định Đức Phật không phải là một vị thần, Đức Phật là một người tu tập trong sạch ba nghiệp, dứt sạch tam nghiệp tham, sân, si nên gọi là Phật. Từ khái niệm trên đã cho chúng ta thấy quan điểm về giáo lý Phật à của Tổ sư Minh Đăng Quang thật sáng tỏ, không những phù hợp với những luận điểm Phật học cấp tiến cùng thời, mà còn phù hợp với chân lý Phật pháp. Đặc biệt , quan điểm này đã giúp cho nhiều người đương thời ý thức được trách nhiệm trong việc trau dồi nhân cách, hoàn thiện bản thân, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của từng thành viên trong môi trường Phật giáo, giác ngộ tỉnh thức trước những quan niệm sai lệch của các tôn giáo ngoại lai, góp phần vào công cuộc đấu tranh giành lại độc lập tự do cho dân tộc.

3. Thay lời kết    

Nhìn lại hành trạng của Tổ sư Minh Đăng Quang và tư tưởng Đại thừa trong nội dung bộ Chơn lý, chúng ta càng thấy rõ Tổ sư Minh Đăng Quang quả là bậc cao Tăng thạc đức .Nơi N gài, không chỉ hàm tàng kiến thức Phật học uyên thâm song song với phương cách vận dụng rất sáng tạo, phản ảnh đúng nghĩa tinh thần và hạnh nguyện Đại thừa của một bậ c Tổ sư thâm chứng Phật pháp. Điều này thật phù hợp với tinh thần Đại thừa như trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật đã dạy: “Thanh tịnh bản nhiên, tùy thuận chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng”.

Thật vậy, qua sự tu chứng của bản thân trên con đường thực nghiệm tâm linh tầm cầu tuệ giác, Tổ sư Minh Đăng Quang đã khéo léo tùy thuận vào hoàn cảnh của đất nước và con người mà khai sáng một Hệ phái Khất s ĩ mang đậm bản sắc đạo Phật của đất nước và con người Việt Nam. Xin nhắc lại, cái gọi là tư tưởng Đại thừa của N gài ở đây là không phân biệt Đại thừa hay Tiểu thừa mà là sự tiếp thu một cách có chọn lọc những tinh hoa giáo lý, giới luật, kinh điển và cách hành sự Tăng đoàn giữa hai trường phái Nam truyền và Bắc truyền để nhằm tôn vinh đời sống tuệ giác của Đ ức T p hụ Bổn s ư cách đây hơn 25 thế kỷ. Tư tưởng, đời sống phạm hạnh của Đức Tổ sư chẳng những đã góp phần to lớn vào công cuộc chấn hưng Phật giáo Việt trong nửa đầu thế kỷ XX , mà còn làm cho bản sắc văn hóa Phật giáo Việt Nam ngày càng lung linh, đa dạng và phong phú. Hào quang của N gài không chỉ tỏa sáng trong thời kỳ Ngài hành đạo, mà còn tiếp tục lan rộng trên khắp các vùng, miền đất nước Việt Nam thân yêu. Thật vậy, chỉ trong khoảng thời gian chưa đầy thế kỷ, Đạo Phật Khất S ĩ Việt Nam trên con đường hoằng dương Chánh pháp, vươn tới tương lai đã nhanh chóng lớn mạnh và hòa nhập vào dòng chảy của lịch sử Phật giáo Việt Nam qua từng thời kỳ ổn định và phát triển. Đặc biệt là sự kiện lịch sử thống nhất Phật giáo toàn quốc năm 1981, tổ chức Hệ phái Khất s ĩ của Tổ sư Minh Đăng Quang đã trở thành một trong 9 tổ chức thành viên thống nhất trong lòng Giáo h ội Phật g iáo Việt Nam, góp phần đáng kể tô điểm cho trang sử vàng của Phật giáo Việt Nam càng rực rỡ.

Tạm kết bài tham luận này, chúng tôi một lần nữa khẳng định, tinh thần Đ ại thừa là tinh thần nhập thế, hạnh nguyện đại thừa là hạnh nguyện độ sanh, khuynh hướng Đ ại thừa là sự kế thừa và phát huy những truyền thống đã có, uyển chuyển linh hoạt trong mọi hoàn cảnh để thăng hoa và phát triển. Tất cả những thuộc tính cao quý mang lại lợi ích thiết thực cho chúng sanh, đều dàn trải bàng bạc trong toàn bộ nội dung bộ Chơn lý . Đó chính là tư tưởng Đại thừa “Nối truyền Thích -ca C hánh pháp”, noi theo gương Phật T ăng xưa, dấn thân nhập thế phụng sự đạo đời của Hệ phái Khất sĩ Việt Nam.

Thượng tọa Thích Huệ Thông
Ủy viên HĐTS GHPGVN
Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bình Dương


[1] Theo tư liệu của cư sĩ Khánh Vân, Duy Tân, số 18.

[2] Nguyễn Đức Hiền (chủ biên), Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, Sở Văn hóa và Thông tin Đồng Tháp xuất bản, 1990.

[3] Tổ sư Minh Đăng Quang, Chơn lý tập ICó và không”, Hà Nội, Nxb. Tôn giáo, 2009, tr. 143.

[4] Luật tạng, quyển 1, Đại phẩm.

[5] TT. Thích Mật Thể, Việt Nam Phật giáo sử lược, chương 9.

[6] Sđd, chương 10.

[7]Tổ sư Minh Đăng Quang, Chơn lý tập II “Trường đạo lý”, Hà Nội, Nxb. Tôn giáo, 2009, tr. 363.

[8] Sđd, tập II “Chánh pháp”, tr. 27-28.

[9] Sđd, tập I “Học chơn lý”, tr. 470.

[10] Sđd, tập III “Đạo Phật”, tr .62-63.

[11] Sđd, “Phật tánh”, tr. 22.

[12] Sđd, “Khất sĩ”, tr. 350.

[13] Sđd, “Khuyến tu”, tr. 182.

[14] Kinh Di giáo.

[15] Sđd.

[16] Tổ sư Minh Đăng Quang, Chơn lý tập III “Khổ và vui”, Hà Nội, Nxb. Tôn giáo, 2009, tr. 440.

[17] Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Tựa, thứ nhất.

[18] Sđd, phẩm Phương tiện, thứ hai.

[19] Sđd.

[20] Tổ sư Minh Đăng Quang, Chơn lý tập III “Phật tánh”, Hà Nội, Nxb. Tôn giáo, 2009, tr. 9.

[21] Tổ sư Minh Đăng Quang, Chơn lý tập II “Đời đạo đức”, Hà Nội, Nxb. Tôn giáo, 2009, tr. 454-455

[22] Sđd, tập III “Hòa bình”, tr. 350.

[23] Sđd, tr. 367.

[24] Sđd, tr. 368-369.

[25] Sđd, tr. 371.

[26] Sđd, “Tu và nghiệp”, tr. 85.