Tưởng niệm cố Hòa thượng Tri sự trưởng Giáo đoàn III tân viên tịch

Một chiều Đông, Biển Đông đìu hiu buồn cô quạnh,

Sông Đà Rằng con nước cuồn cuộn đổ về Đông,

An Nhơn, Tuy Hoà, Quy Nhơn địa linh nhân kiệt,

Non xanh, nước biếc, đất lành sanh người Hiền sĩ,

Núi Nhạn uy nghiêm chim Hạc bay lượn về Tây.

 

Hỡi ôi,

Đất trời Tây, Mỹ Quốc dập dìu con sóng biếc,

Nghe tin tấc dạ bùi ngùi

Nhịp Vô thường vang vang tiếng:

Đất Mẹ Việt Nam Khất sĩ cội Hồng,

Ngọc Duyên Đập Đá tùng liễu rũ bóng,

Bậc Tòng lâm vui với cơn mộng Vô thường, 

Mình vận Cà sa, tay dương tích trượng, vai quảy Bát quay về Núi cũ!

Giáo pháp hoằng truyền, giáo pháp Khất sĩ nhiếp hoá quần sanh,

Tứ chúng đồng tu an lạc hạnh,

Đạo thể vuông tròn,

Niết bàn thể nhập tánh giác vô sanh,

Giáo hội, Tứ chúng kính cẩn ghi gương đạo hạnh,

Ta-bà in dấu ấn bậc chân nhân.

 

Giờ đây,

Trước giờ tiễn biệt,

Nghìn thu cách biệt,

Nửa vòng Trái Đất, phương trời xa cách,

Mượn bút với vài dòng thay lời lễ tiễn kính tiếc bậc Đại Sa-môn,

Ôi thanh cao gương người sáng tỏ,

Phạm hạnh an lành ánh lên đóa Vô Ưu!

 

Kính bạch Giác linh Ngài,

Trước áng kim đài,

Trang nghiêm thanh tịnh,

Kim quan của Hoà thượng tọa vị liên đài,

Trong giờ phút nghìn thu vĩnh biệt,

Con thành kính nghiêng mình đê đầu kỉnh lễ tiễn biệt Đức Ngài cao đăng Phật quốc.

 

Hòa thượng  trở về nơi cõi Phật,

Dẫu biết rằng sinh tử là lẽ thường,

Nhưng làm sao tránh khỏi bùi ngùi vĩnh  biệt!

 

Nhớ Giác linh xưa:

Năm Canh Dần (1950), tại Hoà Kiến, ngoại trấn Tuy Hoà, Phú Yên,

Ghi dấu một cao Tăng tái kiếp làm hài nhi,

Vùng đất ấy địa linh,

Muôn vàng tinh tú chiếu soi,

Thân tướng trượng phu, 

Cốt cách phương phi,

Trong gia đình, thân phụ mẫu đều tin Phật.

Thuở nhỏ lễ phép, hiền hoà, hiếu thảo...

Tái lai vốn sẵn hiện tiền,

Nên lòng từ ái thương người mến vật vượt lên hẳn phàm nhân.

 

Năm lên năm tuổi, phụ thân của Ngài mất sớm, 

Thân mẫu một nắng hai sương

Quằn gánh nuôi dạy anh em Ngài khôn lớn.

Năm lên bảy tuổi, Ngài đến trường học chữ. 

Tư chất thông minh,

Siêng năng học tập,

Khởi chí nam nhi,

Kiên trì cần mẫn,

Thay Mẹ già gánh vác việc nhà.

Tuy trong tình cảnh gia đình

Nhưng Ngài vẫn lập hạnh tu tập tinh tấn. 

Tại tư gia, Ngài tập ăn chay trường, 

Tụng kinh niệm Phật, 

Tập sống hạnh quên mình, 

Hằng ngày làm việc chăm chỉ, 

Giúp đỡ và bố thí cho bà con trong vùng có hoàn cảnh khó khăn.

 

Khởi thủy nhân duyên hội tụ,

Với nhân lành tu tập nhiều đời, 

Quả thật là:

Túc duyên Phật pháp nơi Ngài thật sâu dày,

Ngày ngày tập hạnh đơn giản,

Ngài thường tụng Kinh, lễ Phật,

Tự tâm mình nhắc nhở mình con đường sáng.

 

Nhân duyên lành có ngày lành lần lần sáng tỏ,

Nhân duyên với Tam Bảo nơi Ngài cũng đến hồi chín muồi từ trong tự tánh!

Hướng tâm về đến cõi không,

Lòng đã quyết, 

Nguyện sống đời xả ly.

 

Thế rồi, 

Ngày 29 tháng 3 năm Mậu Thân - 1968, 

Ngọc Tòng Tịnh xá đất Lương Sơn, 

Nha Trang cát vàng in muôn lối, 

Cõi Ta-ba Đức Thầy giáo hoá nhân sanh.

Người thanh niên ấy,

Được Đức Thầy Giác An tế độ xuống tóc 

Kể từ đó chí xuất trần mãnh liệt,

Bước vào nhà đạo với cửa Vô Ưu, 

Tánh danh đã được bôi nhoà,

Pháp danh Huệ Học được sáng toà liên hoa.

Trong tình thương lớn ấy,

Ngày ngày theo chân Thầy học đạo,

Dồi mài Tâm tánh,

Tập hành pháp Định tâm,

Xứ Niết-bàn là trong Tăng đoàn hoà hợp, 

Thầy dạy Trò học hạnh thanh cao.

 

Năm 1970, vào ngày Rằm tháng Bảy, 

Lễ Tự tứ - Vu lan bồn câu hội,

Nơi đạo tràng Tịnh xá Ngọc Bảo Phan Rang,

Ngài được Đức Thầy truyền thụ giới Sa-di,

Với pháp danh Giác Tần,

Y với Bát kiên trì hạnh thanh cao.

 

Dòng thời gian lần hồi trôi theo dòng pháp,

Đồi Cát Phan Thiết năm 1971,

Tịnh xá Ngọc Cát nơi diễn ra Lễ Tự tứ Tăng.

Mùa Vu Lan bồn năm ấy,

Lá thu vàng rơi, Đức Thầy viên tịch,

Ngài vào Vô dư, để lại niềm kính tiếc vô hạn,

Sa-di Giác Tần trầm tư trong u tịch! 

 

Năm với tháng dồi mài Định Tuệ,

Mượn Y Bát làm phương khất hoá

Khêu ngọn đèn Bát chánh trong tâm

Rằm tháng Bảy, một chín bảy tư,

Đảo Nhơn Lý tại Tịnh xá Ngọc Hoà,

Đất Bình Định ghi dấu ấn Sa môn,

Tăng đoàn hội tụ trong lục hoà quy củ,

Trưởng lão Giác Phải làm giới sư truyền thọ Cụ túc giới. 

Ngài nhận lãnh Y Bát trong đủ,

Kể từ đó thực hiện sứ mệnh của một hành giả Khất sĩ,

Hành phạm hạnh Du tăng khất hoá,

Nguyện bước lên con đường Tam học,

Thượng cầu Phật quả hạ hoá từ đây. 

 

Từ ngày nhập vào dòng pháp Khất sĩ,

Hòa thượng đem hết sức mình,

Hộ trì Phật pháp, phát triển Tăng đồ

Không ngại gian lao vất vả,

Cùng Tăng đoàn Khất sĩ rộng mở bốn phương,

Tinh tấn tu hành,

Nghiêm trì giới luật mô phạm, uy nghiêm,

Từ tâm rộng mở độ quần sanh,

Pháp âm trầm hùng, 

Ngài đã làm thức tỉnh khách trần tỉnh mộng, xoa dịu bao nỗi đau trong nhân thế,

Đời sống giản đơn mà dung dị,

Tiếp Tăng độ chúng, giáo dục Tăng Ni, Phật tử,

Công đức ấy Giáo hội luôn luôn ghi tạc,

Nơi Phật quốc Ánh Nhiên Đài tỏa sáng.

 

Từ Nam - Trung phần đến miền Cao nguyên đất đỏ, đến Duyên hải miền cát trắng,

Bước chân trải dài nện bóng uyên nguyên,

Bóng huỳnh Y tĩnh tọa rồi gióng tiếng Pháp,

Giúp đời tỏ rõ lẽ Tử - Sanh!

 

Trải một vùng rộng với tâm lượng rộng,

Suốt con đường dài với chí thượng nhân,

Nơi nơi chốn chốn in dấu chân hành đạo của Ngài. 

 

Đến năm 1975, thuận theo Tăng sai,

Y lời Giáo hội Ngài về tu tập và hoằng pháp tại Tịnh xá Ngọc Duyên, 

Kể từ đó vùng Đập Đá, An Nhơn, Bình Định,

Có người Thầy Khất sĩ trông coi.

Năm 1994 ghi dấu: Hoà thượng Giác Dưỡng thọ bệnh viên tịch,

Ngài tiếp tục gánh vác trọng trách Trụ trì, 

Trụ pháp Vương gia, Trì Như Lai tạng,

Tiếp chúng độ sanh tại vùng Ngọc Duyên Tịnh xá. 

 

Tuy trong thời gian này thân bệnh bắt đầu xuất hiện, 

Song Ngài vẫn tự tại không hề ngại với tử sanh,

Mặc bệnh duyên, tùy thời hóa độ,

Phụng sự Phật pháp,

Hạnh giản dị trong cuộc đời dung dị,

Nhẫn nại, tinh tấn, hy sinh...

Giới với Hạnh làm trong môn Tam học,

Kiên trì cần mẫn, khuyến khích Phật tử thập phương lập công bồi đức.

 

Nêu cao gương hạnh thương yêu, 

Bố thí giúp đỡ người,

Là bậc mô phạm sáng cho chúng đệ tử, 

Hạnh nguyện hoằng pháp độ sinh như nguồn sống,

Thôi thúc Ngài phụng sự không ngừng nghỉ. 

Giáo phẩm trong Giáo hội, 

Tri sự trưởng trong Tăng đoàn,

Gương hạnh tuệ sáng ngời Đuốc Tuệ,

Mọi Phật sự vẫn tuỳ duyên vô ngại,

Vô cầu, vô chấp với khí lượng vô tham,

Nam Trung phần sáng ngời gương Vô uý!

 

Nơi trần thế vẫn ghi tạc dòng tưởng nhớ:

Đạo hạnh,

Chân nhân,

Uy đức,

Vô uý,

Sáng tỏ giáo hạnh tuỳ duyên!

Những đóng góp,

Và dấn thân của Ngài,

Muôn người, muôn nơi đều ghi nhận,

Ôi! Gương sáng ngàn đời,

Đạo pháp và Dân tộc sáng ngời trong uy đức ấy. 

 

Sanh với Tử như trò đuổi bắt,

Tử với Sanh như giấc ngủ nối dài,

Quy luật Vô thường:

Có đến có đi,

Bệnh suyễn dẫu có,

Nệ hà chi cơn sanh tử gần kề

Còn mất là lẽ thường trong Vũ trụ!

Trời đất âm u,

Vận khí với hình chuyển,

Dòng thời gian chiếu tỏ gốc tử sanh,

Mùng 3 tháng Giêng, Mậu Tuất,

Lúc 20 giờ bắt đầu tứ đại chuyển mạnh,

Mạnh dần đến 10 phút sau thân dừng lại vô âm.

Cơn sanh tử, hỡi đưa Người vào nơi an nghỉ

Rõ hồng trần nhé tỏ rõ ánh ban mai:

Buông thể xác nhẹ nhàng quên thân tứ đại,

Thoát hồng trần nhập Phật cảnh thỏa rong chơi! 

GIÁC là Ngộ cuộc đời trong huyễn mộng, lội ngược dòng khêu đèn chánh Pháp,

TẦN là Viên tròn bổn nguyện uyên nguyên, thả thuyền từ cứu vướt quần sanh!

Nam mô Giác linh Hòa thượng Tri sự trưởng Giáo đoàn III thùy từ chứng giám.

Vọng khấu, đảnh lễ Giác linh Ngài cao đăng Phật quốc!

Thiền Thất Vô Ưu,

Rừng Thiền Pháp Thuận,

Con, Khất sĩ Giác Chinh.