Vài nét về quá trình tiếp cận & hình thành tư tưởng "cứu nhân độ thế" mang màu sắc Nam Bộ của Tổ sư Minh Đăng Quang

Hthao 1

1.1. Thời niên thiếu

Đức Tổ sư Minh Đăng Quang, Tổ khai sáng Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam, thế danh Nguyễn Thành Đạt, tự Lý Huờn, sinh ngày 04 tháng 11 năm 1923 (nhằm 26 tháng 9 năm Quý Hợi) tại làng Phú Hậu, tổng Bình Phú, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Ngài xuất thân từ gia đình có truyền thống trọng Nho kính Phật. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Tồn Hiếu. Thân mẫu là cụ bà Phạm Thị Tỵ (tự Nhàn). Đây cũng là giai đoạn đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam đang rên xiết dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Bao người nung nấu, ấp ủ hoài bão “cứu khổ cứu nạn”; có người chọn con đường bạo động, có người chọn con đường bất bạo động… Riêng Ngài chọn con đường “chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ-đề”.

Khi Ngài tròn mười tháng tuổi, cụ bà lâm trọng bệnh và lìa đời, Ngài được người cô và bà nội chăm sóc, sau đến kế mẫu Hà Thị Song giáo dưỡng, cho ăn học đến tuổi thiếu niên. Thuở đó, Ngài thỉnh thoảng theo cụ ông đến chùa dâng hương lễ Phật nghe kinh, tiếp cận chay lạt. Nhờ đó, trong tâm thức của người thiếu niên đã nẩy nở, hình thành và chiêm nghiệm về cách giải quyết nỗi khổ của chúng sinh. Lại thêm ảnh hưởng phần nào việc nghe xem kinh sử và phong trào “cứu nhân độ thế” đương thời, nên có lần Ngài xin theo cụ ông đi Cao Miên (tên do nước Pháp đặt cho xứ bảo hộ, Campuchia ngày nay) để tìm hiểu về tài hay phép lạ của ông Lục Tà Keo. Khi trở về Việt Nam, ấn tượng tài phép của Lục Tà Keo vẫn luôn “hấp dẫn” tâm trí người thiếu niên sớm có hoài bão. Đến năm 15 tuổi, cụm từ “cứu nhân độ thế” luôn thôi thúc trong tâm của Ngài. Để làm rõ bản chất của cụm từ trên, cách tiếp cận và con đường thực hiện, Ngài quyết định xin phép gia đình sang Cao Miên cầu học pháp mầu.

1.2. Giai đoạn trưởng thành

Khoảng 3 năm theo thầy học nghiệm phép mầu, ý chí và nghị lực kiên định, Ngài đã vượt qua bao thử thách cực kỳ gian khổ, nhưng vẫn không sờn lòng, chỉ mong sao sớm truy cầu được pháp mầu. Tuy nhiên, những kiến thức đó chưa đủ đáp ứng tâm nguyện mong cầu. Ngài quyết định xin thầy trở về Việt Nam.

Trong khi chờ duyên tiếp tục tầm cầu chơn lý độ đời, để thu lượm thêm kiến thức, Ngài xin phép gia đình tìm việc tạm sống. Có lần, Ngài đến thăm ông Hội đồng Nhiều - chủ một nhà buôn khá lớn ở Sài Gòn mà Ngài đã có lần gặp tại nhà Lục Tà Keo, ông Hội đồng Nhiều rất mừng rỡ, liền mời Ngài đến cộng tác quản lý việc sổ sách.

Hội đồng Nhiều có người con gái nuôi tên Nguyễn Kim Huê, hương sắc mặn mà. Mến tài người thanh niên, Hội đồng Nhiều bàn tính trong gia đình sớm thu nhận cậu trai khôi ngô tuấn tú Nguyễn Thành Đạt làm hiền tế… Ngài vì hiếu, vâng lệnh thân phụ, kết hôn cùng cô gái ấy.Ngày 23 tháng 01 năm 1943, hạ sanh Kim Liên. Bất hạnh thay, vài tháng sau Kim Huê lìa đời. Nghịch duyên đã dứt, Ngài tiếp nối ý nguyện đi tìm chân lý thoát khổ độ sanh.

2. Quá trình hình thành tư tưởng “cứu nhân độ thế” mang màu sắc Nam Bộ

Thay vì phản ứng và hành động tiêu cực như nhiều người cùng cảnh ngộ, Ngài đã vượt qua “bể khổ” của bản thân để nung nấu nguyện vọng tầm cầu chơn lý cứu khổ muôn loài.“Chúng tôi sanh trong thời loạn, thấy cảnh thương tâm, mong tìm phương cứu chữa…” (Trích “Đoàn Du tăng” trong Chơn lý “Hòa bình”).

* Chứng ngộ Chơn lý đầu tiên (lý chứng)

Đầu năm 1944, Ngài từ biệt gia đình, hướng về khu vực Hà Tiên (nay là tỉnh Kiên Giang), tìm tàu thuyền ra vùng hoang đảo vì nghe nơi ấy có nhiều ẩn sĩ đạo đức nổi tiếng, nhưng trễ tàu nên đành ở lại khu vực dọc theo bãi biển Mũi Nai - Hà Tiên. Qua bảy ngày đêm thiền tọa nơi cảnh núi rừng hoang vắng hướng ra vùng trời biển mênh mông, Ngài chứng ngộ lý pháp nhiệm mầu “Thuyền Bát-nhã” ngược dòng rẽ sóng cứu vớt chúng sanh.

* Chứng ngộ Chơn lý toàn hảo (sự chứng)

Như để chuẩn bị một sứ mạng thiêng liêng, Ngài trở về viếng thăm gia đình với chiếc áo nâu sòng, đã phủi sạch tóc râu. Ngài bày tỏ sự chứng ngộ ban đầu và chí nguyện tầm cầu chơn lý toàn hảo để hoằng hóa độ sanh của mình, rồi cáo từ gia đình ra đi, đến vùng núi Trà Lơn (Thất Sơn) bên kia biên giới Cao Miên để ẩn tu, tầm chơn sư tham vấn đạo lý. “Năm 1946 nạn khói lửa chiến tranh danh lợi đốt phá núi rừng, làm cho người tu không chỗ ở… Ngài rời khỏi xứ Cao Miên, trở về Nam Việt thực hành giới luật Tăng đồ tại tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang) cho đến năm 1948” (“Nguồn Khất sĩ” trong Chơn lý “Đạo Phật Khất Sĩ”). Từ vùng Thất Sơn, Ngài về tạm ngụ tại Linh Bửu tự theo lời thỉnh cầu của một hiền sĩ, để mở đạo tại làng Phú Mỹ, quận Tân Hiệp, tỉnh Mỹ Tho. Thỉnh thoảng Ngài có đến viếng thăm tham vấn các bậc danh Tăng, cư sĩ nổi tiếng đương thời ở vùng Bà Rịa - Vũng Tàu và Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn.

Từ những trải nghiệm qua quá trình nghiên tầm kinh sử và tham vấn đạo lý đó đây, Ngài quyết định đi sâu vào vườn rừng quanh vùng Linh Bửu tự, ẩn cư an định thiền tư, quán niệm ôn xét nhơn duyên và sau cùng đạt thành chơn lý toàn hảo, lý sự viên dung. Từ đây, phương pháp “cứu độ chúng sanh” và cách giải quyết phù hợp với đặc điểm của cư dân Nam Bộ được hình thành. Có thể nói, tư tưởng “cứu nhân độ thế” mang màu sắc Nam Bộ trong chiêm nghiệm của Ngài đã dần hoàn chỉnh. Ngài đã tỏ sáng dấu chân Chánh pháp của ba đời mười phương chư Phật là “Thánh giới, Thánh định, Thánh huệ và Thánh giải thoát”. Ngay sáng hôm ấy, Ngài trang nghiêm Tam Bảo điện, tôn trí Tứ Phần Luật Tạng cùng các tư cụ y bát… nơi chỗ tôn quý, thành tâm phát đại nguyện quy y Tam Bảo thọ trì Giới Pháp, nguyện trọn đời Tam y nhất bát không lìa thân như chim có hai cánh, nguyện y cứ Trung đạo Tứ y Chánh pháp truyền thống của ba đời chư Phật, hướng đến lợi mình lợi người không bỏ sót một ai. Ngài đã xác chứng Chánh pháp Phật-đà và phát nguyện “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp”. Từ đó Ngài trở thành Tổ sư khai sáng “Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam” với pháp hiệu Minh Đăng Quang.

3. Quá trình hoằng dương tư tưởng “cứu nhân độ thế” mang màu sắc Nam Bộ

Sau khi phát đại nguyện thọ trì giới pháp, sáng Ngài đắp y mang bát vào xóm khất thực hóa duyên, chiều Ngài nói pháp khuyến tu. Với hạnh tu này, đã gây chấn động dân làng Phú Mỹ và lan dần rộng khắp. Có khá nhiều bà con sanh lòng quy ngưỡng. Trong những tháng đầu năm 1947, Ngài đã nhiếp độ cả hai chúng nam nữ cư sĩ và hai chúng xuất gia Tăng Ni Khất sĩ. Cũng tại đây, Ngài soạn thảo nghi thức tụng niệm lễ cúng, chương trình tu học, hành đạo cơ bản cho cư sĩ và Tăng Ni. Ngài quan tâm giáo dưỡng, xây dựng cơ bản Tăng đoàn và Ni đoàn, tốt về đạo hạnh, vững về kiến thức Chánh pháp Phật-đà. Đầu năm 1948, nhân duyên hội đủ, Đức Tổ sư rời Phú Mỹ, khởi phát chuyến du hành đầu tiên do Ngài hướng dẫn có hơn 20 Tăng Ni trực chỉ vùng Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn. Cũng với phương tiện khất thực hóa duyên và thuyết giảng kinh pháp khuyến tu nêu trên, đoàn Du tăng Khất sĩ do Ngài hướng dẫn đã ảnh hưởng sâu rộng đến quần chúng trong vùng. Hội đình Phú Lâm - Cây Gõ đã phát tâm hiến cơ sở cho Ngài thành lập Tịnh xá Ngọc Lâm. Thứ đến, Hội chùa Kỳ Viên (Bàn Cờ) cũng thỉnh cầu như vậy, để cho Đoàn có nơi nương ở tu học và mở đạo. Đây là điểm đầu tiên Ngài và Đoàn tác pháp An cư kiết hạ 3 tháng.

Sau đó, Đoàn xoay hướng hành đạo về vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Ánh đạo vàng do Ngài nối truyền đã nhanh chóng lan tỏa khắp các tỉnh sông Tiền, sông Hậu và các tỉnh giáp biên giới Cao Miên. Chỉ trong mấy tháng cuối năm 1948, các đạo tràng tịnh xá như Pháp Vân, Trúc Viên (Ngọc Thuận) và Ngọc Viên tại trung tâm tỉnh lỵ Vĩnh Long được thành lập. Cũng với hạnh đức và phương pháp này, nền đạo Khất sĩ lan rộng đến các tỉnh miền Đông, nhất là vùng Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn. Những thành tựu đáng kể nêu trên, đều nhờ ân đức cao trọng và tôn chỉ mục đích theo đúng chơn lý Chánh pháp của Ngài.

4. “Cứu nhân độ thế” qua lời dạy và việc làm của Đức Tổ sư

Xuyên suốt thời gian kể từ ngày Đức Tổ sư xuất gia tầm chơn lý đầu năm 1944 đến ngày Đức Tổ vắng bóng mùng 01 tháng 02 năm Giáp Ngọ (1954), tính ra vừa tròn 10 năm. Trong đó 3 năm đầu dấn thân nơi núi rừng, vùng Thất Sơn, biên giới Việt Nam – Campuchia và cuối cùng là làng Phú Mỹ – Mỹ Tho để tầm cầu chơn lý Chánh pháp Phật-đà, ẩn tu chiêm nghiệm và sau cùng chứng ngộ chơn lý toàn hảo. Bảy năm còn lại, Đức Tổ sư thực hiện tâm nguyện hành trì Bồ-tát hạnh, y bát khất thực hóa duyên theo Trung đạo Tứ y Chánh pháp như Phật Tăng xưa.

Suốt 7 năm ròng rã tích cực bằng mọi phương tiện, Đức Tổ sư đã gầy dựng và phát huy một Tăng thân tốt đẹp, lớn mạnh về số lượng lẫn chất lượng, nhất là về mặt giới hạnh kiến thức đều kiêm ưu, có hơn 100 vị. Đức Tổ sư đã mở mang và thành lập hơn ba mươi ngôi đạo tràng tịnh xá khắp các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ. Ngoài ra, Ngài còn khéo léo ứng dụng phương tiện truyền thông và cơ giới hiện đại đương thời vào công việc hoằng pháp. Ngài đã sử dụng máy tăng âm, những đĩa nhựa được ghi âm các bài kệ pháp mang theo xe để phát ra cho nhiều người nghe biết. Ngài chứng minh cho cư sĩ hộ pháp thành lập nhà máy in Pháp Ấn để ấn loát phổ biến những bài giảng Chơn lý; mạnh dạn cho sử dụng xe con, xe 20 chỗ ngồi, để đưa Đoàn đi hành đạo khắp xứ.

Trước tác của Đức Tổ sư không nhiều, nổi bật nhất là 69 đề tài pháp Chơn lý mà Ngài đã hoằng dương khắp nơi và cô đọng lại thành văn bản được ấn loát phổ biến cùng khắp. Các đề tài trong bộ Chơn lý do Đức Tổ sư giảng giải đã phản ánh đầy đủ các quan điểm từ tư tưởng nhận thức đến thực tế cuộc sống, lợi mình lợi người một cách rõ ràng, khế hợp giáo lý chơn truyền của Đức Phật. 10 quyển đầu, từ Chơn lý “Võ trụ quan” (số 1) đến Chơn lý “Chánh đẳng Chánh giác” (số 10) là phần nhận thức cơ bản về các pháp hiện hữu có thắng liệt, khổ vui… của thế giới và chúng sanh, trong đó đối tượng chính yếu là con người. Rồi từ đó, Ngài nêu rõ những quan điểm, tư tưởng, nhận thức thực tiễn đi vào cuộc sống. Ngài phản ánh những quan điểm, tư tưởng, nhận thức sai lệch đưa muôn loài vào cảnh khổ sinh tử và xác định những quan điểm, tư tưởng, nhận thức chơn chánh theo Chánh pháp Phật-đà, đưa chúng sanh đến giải thoát chấm dứt khổ đau. Qua đó, chúng ta thấy rõ tư tưởng “cứu nhân độ thế” mang màu sắc Nam Bộ thấm đẫm tính nhân văn cao cả của Ngài.

Từ bài Chơn lý số 11 đến 20, Ngài trình bày về lối sống cơ bản cho người cư sĩ áo trắng và hàng đệ tử xuất gia khất sĩ. Từ bài Chơn lý số 65 đến bài số 69 là những bài học cơ bản cần thiết cho Phật tử cư sĩ và Sa-di tập sự xuất gia Khất sĩ. Phần Chơn lý còn lại nhằm phân tích xác định sự thật hiện hữu: chánh tà, chơn vọng, đời đạo, khổ vui, thiện ác, phải trái, tốt xấu, hay dở, v.v... tương đối và nêu rõ con đường Trung đạo Chánh đẳng Chánh giác giải thoát rốt ráo của bậc Hiền Thánh, nhằm xây dựng một thế giới Thánh đức hiền lương và an vui. Xác định pháp môn tu học lợi mình lợi người là: “Người Khất sĩ chỉ có ba pháp tu học vắn tắt là Giới Định Tuệ” để hướng đến giải thoát chấm dứt toàn bộ khổ đau. Đây cũng chính là phương tiện chủ yếu để thực hiện tư tưởng “cứu nhân độ thế” mang màu sắc Nam Bộ.

Dựa trên dấu ấn Chánh pháp của ba đời chư Phật là Giới, Định, Tuệ và Giải thoát mà Ngài đã chứng ngộ, Ngài hoàn bị hệ thống trọn bộ bài giảng Chánh pháp gồm 69 đề tài để làm “kim chỉ nam” cho đệ tử khỏi sợ chệch hướng trên lộ trình tu học và hoằng pháp lợi sinh. Ngài đã xây dựng giáo dưỡng các Tăng Ni có kiến thức giáo pháp cơ bản, đạo hạnh trang nghiêm và đạo lực vững chãi để sẵn sàng thay Ngài lèo lái con thuyền Giáo hội cứu độ chúng sanh. Hàng bạch y cư sĩ cận sự nam nữ nòng cốt đã có niềm tin kiên cố với nền đạo của Ngài, sẽ là những cột trụ hộ pháp trợ duyên đắc lực để bảo tồn và phát huy Chánh pháp. Thực hiện tâm nguyện của Ngài, hàng hàng lớp lớp đệ tử của Ngài đã và đang tham gia con đường hoằng pháp lợi sanh, thực hành giải thoát tại nơi trần thế.

Ngài đã chọn lựa, sắp đặt các đệ tử Tăng Ni xứng đáng lãnh đạo các Giáo đoàn kể cả hành xứ và trụ xứ. Như vậy, tâm nguyện hoằng truyền Chánh pháp của Ngài bấy giờ được xem là viên mãn. Ngài vẫn bình thường tới lui thăm viếng các đạo tràng tịnh xá để nói pháp trợ duyên cho cư sĩ và nhắc nhở sách tấn hàng Tăng Ni Khất sĩ đệ tử. Đến một hôm, sau khi viếng thăm các tỉnh vùng tiếp giáp biên giới Cao Miên tại Châu Đốc – Long Xuyên, Ngài quay về Tịnh xá Ngọc Quang – Sa Đéc (nay là tỉnh Đồng Tháp). Nhân ngày cúng hội 30 tháng Giêng, Ngài tập hợp chư Tỳ-kheo hành lễ Bố-tát tụng giới bổn và chứng minh cúng hội, thuyết pháp khuyến tu như thường lệ. Xế chiều, Ngài tập hợp các đệ tử quây quần dưới tàng cây bã đậu để nhắc nhở, dặn dò những điều tâm huyết về chuyến đi tu tịnh của Ngài. Các đệ tử ngạc nhiên trước câu nói của Ngài và chưa hiểu được ý nghĩa sâu xa như thế nào. Sáng sớm mùng 01 tháng 02 năm Giáp Ngọ (1954), Ngài cùng 3 đệ tử và tài xế Giác Nghĩa lên chiếc xe 4 chỗ thẳng tiến về Tịnh xá Ngọc Viên – Vĩnh Long, đến nơi vào lúc 7 giờ 30 phút. Ngài đến chứng minh một cốc lá bằng cây ván do Phật tử làm xong dâng cúng. Ngài truyền đệ tử mang mấy ngàn quyển Chơn lý lên xe, thăm hỏi sách tấn vài Phật tử cư sĩ thân tín, rồi lên đường hướng về miền Hậu Giang.

Xe đến bến phà Cái Vồn - Bình Minh và từ đó Ngài vắng bóng đến nay. Năm ấy Ngài vừa tròn 32 tuổi. Bấy giờ mới hay lời nói của Ngài đi tu tịnh là lời tiên đoán mầu nhiệm. Sự vắng bóng của Đức Tổ sư đã để lại trong lòng đệ tử xuất gia Tăng Ni và nam nữ cư sĩ chịu ơn đức dẫn dắt của Ngài một cảm xúc đau buồn vô hạn. Nhưng tư tưởng của Ngài vẫn tồn tại như ngọn lửa bất diệt, dìu dắt trên 3.000 Tăng Ni và Phật tử sớm mau cập bến Giác.

Người sưu tầm và trình bày bài viết này thành tâm cảm niệm như một nén hương dâng lên nhân Đại lễ Tưởng niệm 60 năm Ngài vắng bóng.