CHÀO MỪNG QUÝ VỊ ĐÃ GHÉ THĂM TRANG NHÀ. CHÚC QUÝ VỊ AN VUI VỚI PHÁP BẢO CAO QUÝ !

Thiền ngộ (Phần 4)

TẮC THỨ 13: ẨN CƯ TRONG NÚI SÂU NƠI CÀNG SÂU HƠN

Hơn 1200 năm trước, tại Đàm Châu Hồ Nam (nay là Trường sa), một hôm, mọi người bỗng phát hiện ở nơi đầu phố có xuất hiện một nhân vật thần bí đầu trọc chân đỏ, xem ông ta cầm một bình bát trong tay dường như là một Hoà thượng.

Mọi người hỏi ông ta từ đâu đến, ông ta nói: “Từ nơi đến mà đến”.

“Vậy thì ngươi muốn đi đến đâu?”

Ông ta gật gật đầu nói: “Đến nơi cần đến”.

“Nhà của ngươi ở đâu?”.

Ông ta hỏi lại: “Nhà, có một nơi cố định sao?”.

“Ông phải luôn biết mình gọi là gì?”

Ông ta nói: “Ngươi có tên gọi, nhưng tên gọi là ngươi sao?”.

Mọi người không ai biết ông ta từ đâu đến và sẽ đi về đâu, không rõ ông ta quê quán nơi đâu, tục danh pháp hiệu là gì. Vốn dĩ, một người không lai lịch, không tên họ, như vậy cũng rất bình thường. Nhưng, mọi người quen với việc có tên tuổi, cho rằng tên họ chính là mình, nên cảm thấy ông ta có đôi phần thần bí.

Có người lòng dạ tốt đẹp chỉ điểm cho ông: “Ông là Hoà thượng, nên tham thiền đi, từ đây đi về hướng Đông bảy trăm dặm, ở Hồng Châu Giang Tây có Đại sư Mã Tổ xuất thế, chỉ cần ông gặp được Mã Tổ, ông có thể thành Phật làm Tổ”.

Ông ngớ ngẩn hỏi mọi người: “Người còn uống sữa không? Sữa mẹ ngon như vậy vì sao nay ngươi không uống nữa?”.

Từ câu nói này, mọi người thấp thoáng cảm nhận được ông là người có lai lịch, là một Hoà thượng, dường như đã bái kiến Mã Tổ Đạo Nhất. Thế là, liền có một Thiền tăng đến trước mặt ông, trịnh trọng trải đồ lễ bái. Sau khi đảnh lễ ba lễ, cung kính thỉnh ông khai thị Thiền yếu.

Ông hỏi thiền tăng câu hỏi giống như mọi người thường hỏi ông: “ngươi từ đâu đến?”

Thiền tăng đương nhiên biết, cũng một câu nói như vậy, nhưng câu hỏi của Ngài và câu hỏi của người khác, ý nghĩa không giống nhau. Thiền tăng trả lời là: “Tôi từ chỗ Lão tôn túc đến”.

Cổ nhân nói: “Đức cao gọi là Tôn, tuổi lớn gọi là Túc”, Phật giáo gọi người đức tôn niên trưởng là “TônTúc”.

Ông lại hỏi: “Ngươi có điều gì muốn nói không?”.

Thiền tăng loé lên một câu hỏi sắc sảo: “Nói tức trăm câu ngàn lời, không nói tức một câu cũng không”.

Ông cười hì hì: “kẻ này lại giống như con ruồi đẻ trứng”.

Thiền tăng nghe câu nói thô tục tượng hình tượng này rồi, lần nữa năm vóc sát đất đảnh lễ. Nhưng ông lại giơ gậy trúc trên tay lên đánh túi bụi…. Sau đó, cũng thần bí như lúc mới xuất hiện, đột nhiên bí mật biến mất, cũng chẳng còn âm tín gì.

Mấy mươi năm sau, người sáng lập tông Tào Động - Đại sư Động Sơn Lương Giá và sư huynh của Ngài - Thần Tiên Tăng Mật (tục xưng là Sư Bá Mật, xem Tùng Thư ‘Thiền Sơn Thiền Thuỷ, Động Sơn Hàn Thử’) cùng vân du thăm viếng vùng lân cận Đàm Châu.

Một hôm, hai vị đi qua chân núi Long Sơn, lúc Động Sơn Lương Giá đang rửa tay bên suối nhỏ, ngẫu nhiên nhìn thấy một lá rau khô vàng đang trôi nổi trên dòng suối. Động Sơn bất giác ngẩng đầu nhìn lên, vừa nhìn nhìn đỉnh núi Long Sơn hiểm trở, vừa tự nhủ thầm: “Người trong thôn đều nói trên ngọn núi lớn này không có người ở, nhưng tại sao có lá rau trôi theo dòng suối đến? Chẳng lẽ trong núi sâu có người tu hành ẩn cư?”

Sư Bá Mật nói: “Chỉ có một lá rau thôi, có gì phải kinh ngạc như thế? Có lẽ do thợ săn vào núi, hoặc tiều phu vứt bỏ”.

Động Sơn lắc đầu, nói: “Thợ săn, Tiều phu vào núi, làm sao có thể mang rau sống theo được?”.

“Nhưng người trong thôn này nói, trong núi Long Sơn này đã không có chùa chiền, cũng không có am cho người ở”.

Động Sơn Lương giá nói một cách kiên định: “Chính vì như thế, chủ nhân của lá rau này mới chính là ẩn sĩ thực sự, mới là thật là cao nhân tu hành”.

Thế là, Động Sơn và Sư Bá Mật vẹt cỏ tranh um tùm, men theo con suối nhỏ mọc đầy rêu xanh, đi lên phía trên tìm kiếm nơi vùng núi sâu mà đi. Họ gian khổ vượt qua hơn nửa ngày, cuối cùng đi đến tận đầu con suối, nơi miệng suối phun bàng bạc không xa, dường như là một cái nấm, bỗng nhiên xuất hiện một căn lều tranh nhỏ, trước cửa lều thình lình xuất hiện một lão Hoà thượng phong thái như Tiên, hình hài như Hạc đang ngồi đó!

Ngài, dường như đã rất già, nhưng ánh mắt của Ngài lại trong sáng còn hơn trẻ em. Ngài nhìn bạn một cái, tựa hồ như ngay hồn phách của bạn cũng đều được tẩy sạch vậy. Động Sơn đặt túi hành lý xuống, không theo phép dập đầu đảnh lễ như quy cũ Thiền môn, mà chỉ chắp tay tỏ vẻ tôn kính mà thôi – Ngài chưa thấy Phật thật chưa thắp hương. Mặc dù thần thái hình dung của bạn như Tiên nhưng nếu chưa tỏ tâm thấy tánh thì chẳng qua cũng chỉ là tinh linh dựa vào cỏ cây mà thôi.

Nhưng Sư Bá Mật bướng bỉnh lại không để ý đến những điều này, hiếu kỳ vây quanh lão Tăng quay qua quay lại. Tình cảnh như vậy, chỉ mong sao bước tới ôm chân người ta, sà vào lòng người ta, vuốt vuốt chòm râu bạc, giống như cháu nũng nịu và đùa chơi với ông vậy.

Lão Tăng vô danh mở miệng nói: “Núi này không có đường đi, hai vị Cao tăng từ đâu đến?”

Động Sơn Lương Giá biết câu này của Lão Tăng đã nói đường cũng tức là nói đường Thiền. Ngài lập tức dùng cơ phong đối đáp cơ phong, nói: “Có đường hay không có đường tạm thời gác qua một bên, Hoà thượng từ đâu vào đây?”.

Lão Tăng cười nói: “Ta không phải từ mây nước đến”.

Động Sơn ngầm gật đầu, hỏi tiếp: “Hoà thượng trú ở núi này được bao lâu rồi?”.

Câu trả lời của Lão Tăng vi diệu đến cao tuyệt: “Xuân thu không trải qua”.

Đúng vậy, tâm như hư không, trạm nhiên bất động, bất động trạm nhiên, dù thời gian trôi qua, dù không gian biến đổi, dù cho tháng ngày huỷ diệt, tân tinh đản sanh, cũng chẳng hề liên quan đến trạng thái sáng suốt của hư không.

Động Sơn Lương Giá không hổ là vị Đại tông sư khai tông lập phái, đang nhìn nơi không cửa không đường mà vẫn có thể khế nhập: “Hoà thượng ở trước hay núi có trước?”.

“Không biết!”.

Hay cho hai chữ ‘không biết’, trong nháy mắt, gở ngàn cân trong vô hình, hoà sấm chớp ở chín tầng mây.

Biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, có cái biết, ắt có cái không biết, mà không biết tức là không có cái gì mà không biết – Tác phẩm ‘Bát Nhã Vô Tri Luận’ rất huy hoàng nổi tiếng của Pháp sư Tăng Triệu đã giải thích điều này rất tinh diệu. Tông Tào Động là một tông trong Thiền tông rất coi trọng kinh giáo lý luận, từ Tổ sư gia của Thiền sư Động Sơn - Đại sư Thạch Đầu Hy Thiên đã rất để tâm nghiên cứu “Triệu Luận”. Do đó, Động Sơn cũng thâm đắc tam muội ở trong đó, hỏi rằng: “Tại sao không biết?”.

Lão Tăng nói: “Ta không phải từ trời người đến”.

Thiền cơ đấu đến đây, xem ra đã sơn cùng thuỷ tận, Động Sơn Lương Giá vẫn có thể đổi mới cách hỏi: “Hoà thượng ngộ được thiền lý sâu sắc, tinh diệu gì mà đến ở trên núi?”.

Thiền, không đắc cũng không có gì không đắc, nếu có sở đắc, ắt có chấp trước. Vì thế, Lão Tăng vô danh nói: “Ta thấy hai con trâu đất đánh nhau trong biển, mãi cho đến nay mất hẳn tung tích”.

Nghe được hai câu nói này, Động Sơn Lương Giá mới sửa lại Tăng y, trải đồ lễ bái, năm vóc sát đất quỳ xuống.

Đại sư Lương Giá lễ bái xong, chính thức thỉnh giáo: “Thế nào là khách ở trong chủ?”.

Lão Tăng nói: “Núi xanh che mây trắng”.

Đại sư Động Sơn hỏi câu thứ hai: “Thế nào là chủ ở trong khách?”.

Lão Tăng đáp: “Tuổi lớn không ra thây”.

Thiền tông Lâm Tế và Tào Động mỗi tông phái lập ra bốn thuyết chủ khách, nghĩa của nó đều khác nhau. Đại sư Động Sơn Lương Giá là Tông sư gia của tông Tào Động, câu hỏi của Ngài đương nhiên là chủ ý của tông Tào Động.

Cho rằng “Chủ” là Chánh, Thể, Lý; “Khách” là Thiên, Dụng, Sự. Thứ nhất, khách trong chủ, chỉ cho “dụng trong thể”, tức là từ trong bản thể dẫn phát ra tác dụng. Ví dụ, Đại thần phụng mệnh Đế vương, ra ngoài hành sự. Thứ hai, chủ trong khách, là chỉ cho “thể trong dụng”, tức là thể hiện bản thể trong các loại tác dụng. Ví dụ, Đế vương ẩn cư trong phố chợ huyên náo.

Đại sư Động Sơn hỏi câu thứ ba: “Tướng khách chủ bao nhiêu?”

Lão Tăng đáp: “Sóng trên sôngTrường Giang”.

Bồ đề tức phiền não, phiền não tức Bồ đề, sóng tức là nước, nước tức là sóng, hai cái thực chất không hề sai khác. Sóng dữ cuộn trào chủ biến thành khách, sóng yên nước lặng khách biến thành chủ. Chỉ cần không để ý thổi gió làm sóng, tâm như nước lặng – trong trẻo sáng suốt, tự tánh cũng vậy, Huệ quang liền sanh!

Động Sơn hỏi câu thứ tư: “Chủ kháh gặp nhau, có gì để nói?”.

Lão Tăng đáp: “Gió xanh phẩy trăng trắng”.

Thật là một thế giới thanh bình, một luồng ánh sáng tự nhiên. Cảnh giới của Thiền chính hài hoà như thế, đẹp đẽ như thế!.

Đại sư Động Sơn như tắm gió xuân, như uống cam lồ, tràn trề vị ngọt , mỗi lỗ chân lông trên toàn thân đều tràn đầy mãn nguyện. Trong lòng Ngài vô cùng cảm kích, cùng sư Bá Mật làm lễ cáo từ. Họ đi được một lúc, nghe trên đỉnh cao chót vót phía sau lưng, trong khoảng không mây trắng phiêu bồng, truyền đến một tràng ngâm tụng như có như không, như gần như xa:

“Ba gian nhà tranh xưa nay ở,

Một đạo thần quang vạn đạo nhàn,

Chớ đem thị phi để bàn Ngã

Phù sanh xuyên đục không liên quan”.

Nhưng nơi am cỏ đã cháy lên ánh lửa bừng bừng.

Động Sơn Lương Giá vừa vỗ vào chân, than lên một tiếng dài, nói với sư Bá Mật: “Ôi, hai chúng ta đã làm khổ Lão Tôn Túc rồi!”.

Sư Bá Mật nói: “Lửa nơi thảo am của Ngài, không phải ông hay tôi đốt, có liên quan gì đến chúng ta đâu?”.

“Bởi vì chúng ta phát hiện ra tông tích của Ngài, cho nên Ngài phải đổi am cỏ, chuyển đến nơi sâu hơn cả núi sâu. Từ nay về sau, e rằng không ai có thể tìm thấy Ngài nữa”.

Quả nhiên, từ đó về sau, mọi người không ai thấy được vị Lão Hoà thượng này nữa. Vì Ngài ẩn cư trong Long Sơn, nên mọi người gọi Ngài là “Hoà thượng Long Sơn”. Lại cũng vì Ngài ẩn cư trong núi sâu không gặp được nữa, nên người đời sau cũng gọi Ngài là “Hoà thượng Ẩn Sơn”.

Liên quan đến thiền cơ: Người Ẩn Sĩ Muốn Gì.

Quê của tôi ở huyện Hành Đường tỉnh Hà Bắc, ngày xưa, rất xưa được gọi là “Nam Hành Đường”. Ý nghĩa của nó là: Đây là nơi Đế vương đương thời từ phươngNam xuống – nơi đóng đô của nhà Nghiêu - Đường (nay là huyện Đường), nơi cần phải đi qua. Phía Bắc cách thôn trang quê nhà khoảng năm dặm có một ngọn núi nhỏ thấp, trước núi có một con sông uốn lượn, con sông nhỏ có một cái tên kỳ quái - Tẩy Nhĩ Hà.

Sở dĩ con sông nhỏ này có cái tên kỳ quái như vậy, nghe nói có liên quan đến Cao sĩ Hứa Do thời kỳ “Tam Hoàng Ngũ Đại”. Mọi người truyền miệng rằng, ngọn núi nhỏ bên sông chính là nơi ẩn cư năm đó của Hứa Do.

Theo sách xưa ghi chép, nơi Hứa Do ẩn cư gọi là “Kỳ Sơn”. Đúng vậy, tên ngọn núi nhỏ đó chính là Kỳ Sơn.

Một hôm, vua Nghiêu từ huyện Đường đến Kỳ Sơn, muốn đem thiên hạ nhường cho Hứa Do, người mà ông cho rằng tài năng và đức độ hơn mình. Hứa Do nói: “chim cưu mái xây trong Sâm Lâm, chỉ chọn một cành cây mà thôi; chuột Yển uống nước trong sông lớn, chẳng qua cũng chỉ uống no bụng mà thôi. Ta cần thiên hạ của vua làm gì?”

Nói xong, Hứa Do cho rằng lời nói của vua Nghiêu quá dung tục, làm bẩn lỗ tai thanh tịnh của ông, liền chạy ra bờ sông rửa sạch. Lần rửa này, ông đã đem ‘ô nhiễm’ đến cho con sông nhỏ đoan chính này – Con sông không tên biến thành “Sông Tẩy Nhĩ”.

Mặc dù tên núi là “Kỳ”, sông là “Tẩy Nhĩ”, đến nay vẫn gọi thôn xóm bên bờ sông dưới núi này là “Thôn Hứa Do”. Ước đoán, đây cũng chỉ là một truyền thuyết vừa đẹp đẽ, vừa hư huyễn mà thôi. Nhưng chính nhờ truyền thuyết của dân gian mà càng nói rõ Hứa Do ở ẩn, có ảnh hưởng sâu xa trong quần chúng.

Không chút nghi ngờ, văn hoá thổ nhưỡng của Trung Quốc tất nhiên sẽ sản sanh ra ẩn sĩ, mà ẩn sĩ tánh tình thanh cao thuần khiết tất nhiên sẽ được mọi người tôn kính.

Trên đỉnh núi cao hồng trần không lên được, bên bờ sông lớn thói đời khó đến được, từ cổ chí kim, thường có một số người ẩn cư khác với nhân loại. Họ vứt bỏ đèn hoa xán lạn, gần gũi với ánh sáng trăng sao, tránh xa khói lửa nhân gian, tắm gội mây trắng gió thanh, xa rời đô thị huyên náo, cận kề với mây ngàn sông núi,… Họ ngủ trên tảng đá, ở trong hang động, màn trời chiếu đất: nước suối - dùng tay làm gáo, vốc một vốc uống hết nước suối trong; Ao cỏ – bện cỏ làm khố, may cỏ làm quần, mặc qua mùa đông; Thức ăn – hái nấm, ngắt tùng, rau thơm quả ngọt, …

Vì sao họ phải xa rời quần chúng đi ẩn cư? Sự ẩn cư của họ có ý nghĩa gì? Một trong những ẩn sĩ vĩ đại nhất của lịch sử Trung Quốc - Khổng Minh Gia Cát, trước lúc lâm chung đã để lại “Giới Tử Thiên” cho con trai, một câu rõ cả thiên cơ: “Phàm hành vi của bậc quân tử, tĩnh để tu thân, liễm để dưỡng đức. Không đạm bạc không thể sáng chí, không yên tĩnh không thể đạt đến cao xa”.

Bạn có biết, Tiên sinh Ngoạ Long ở ẩn tại Nam Dương, trong nhà tranh có ba thành phần trong thiên hạ, trước có Vương Thông về ở ẩn, sau có đệ tử xuống núi, từ đó mà tạo dựng Đại Đường hưng thạnh một thời; Tiên sinh Ngũ Liễu (hiệu của Đào Uyên Minh) bỏ chức quan mà đi ẩn cư dưới chân Lô Sơn, trồng Cúc ở hàng rào phía Đông, thu hoạch được không chỉ là hoa Cúc mùa thu khí cốt kiên cường, đẹp đẽ ngạo nghễ gió sương, mà còn có sự thần kỳ của thơ Điền Viên bất hũ với “Đào Hoa Nguyên Ký” trong lịch sử văn học Trung Quốc…

Năm đầu thời nhà Tần, một vị thiếu niên ở ẩn trong núi sâu, một nơi không ai có thể gặp được, anh ta may mắn gặp một cao nhân. Sau đó, trong một thời gian dài, cao nhân đã dùng nhiều phương pháp khảo nghiệm khí chất của anh ta. Nhưng thiếu niên vẫn luôn luôn khiêm cung, cẩn thận khi một mình. Một hôm, cao nhân để lại cho anh ta một quyển “Thái Công Binh Pháp” thất truyền đã lâu, rồi nhẹ nhàng ra đi.

Năm tháng trong núi như bóng câu qua cửa sổ, thiếu niên trong thoáng chốc đã đến trung niên, mà đế quốc Đại Tần cực thịnh một thời cũng xán lạn như sao băng, liền bị chôn vùi trong vũ trụ mênh mông. Người trung niên mang quyển binh pháp thuộc lòng trong tâm này xuống núi, giúp đỡ Lưu Bang bình định thiên hạ, xây dựng nên Vương triều Đại Hán.

Ông ta chính là Trương Lương.

Để biểu dương công huân bất hũ của Trương Lương, khi Lưu Bang lên ngôi Hoàng Đế rất khảng khái rộng rãi, cho ông ta lựa chọn bất cứ một vùng đất phong nào mà ông ta muốn trong cả nước. Thế là, Trương Lương chọn “Lưu Bá” một vùng hoang vu ở núi Chung Nam. Bởi vì ông ta muốn thoát khỏi sự trói buộc của thế tục, đi ở ẩn lần nữa.

Đây chính là ẩn sĩ.

TẮC THỨ 14: NÓI MỘT TRƯỢNG KHÔNG BẰNG LÀM MỘT THƯỚC

Thiền sư Đại Từ Hoàn Trung, người Bồ Bản tỉnh Hà Đông (nay là Sơn Tây), giống như Lục Tổ Huệ Năng, tục gia cũng họ Lư, không biết 500 năm trước họ có phải là người một nhà không, nhưng mà 500 năm sau họ chắc chắn là người một nhà – cùng thuộc nhà Phật.

Từ nhỏ xương trên đỉnh đầu Thiền sư Hoàn Trung đã nhô lên trên thành nửa hình tròn, giống như đảnh tướng triêu dương dục xuất chỉ có trên tượng Phật, Bồ tát. Thêm nữa, ngài thông minh sáng suốt, đĩnh ngộ khác thường, các Lão tiên sinh có học vấn đều nói: cậu bé này là người có lai lịch – ngài đương nhiên là người có lai lịch - từ trong thai mẹ ra. Nhưng lúc ngài mười mấy tuổi, mẹ ngài – người sanh ra ngài, nuôi nấng ngài, cho ngài sanh mạng - bỗng nhiên qua đời. Thiếu gia họ Lư tuổi nhỏ học Khổng Mạnh, đọc sách đạt lý, cho nên dựa theo truyền thống lễ nghi hiếu để của Nho gia, dựng một am cỏ bên cạnh mộ phần mẹ, muốn ở đó giữ mộ cho mẹ ba năm.

Chẳng nghi ngờ gì, cuộc sống nơi ngôi nhà giữ mộ thủ hiếu vừa lạnh nhạt vừa tịch tĩnh, vừa trầm lặng vừa lạc lõng. Cảnh tịch liêu, không mặc này dễ dàng khiến cho tư tưởng con người đi vào tư duy thâm sâu. Vì mẫu thân quảy gót về Tây mà thiếu niên nhà họ Lư đau lòng đoạn tuyệt với dục vọng, không khỏi hướng tâm linh của mình vào những câu hỏi sâu xa: Con người, khi sanh ra từ đâu mà đến? Khi họ chết sẽ đi về đâu? Trước khi cha mẹ sanh ra, ta ở đâu? Sau khi mẹ qua đời, mẹ lại đi về đâu?....

Thiếu niên họ Lư vô cùng buồn khổ, cậu ngẩng đầu hỏi trời xanh: Đời Tần trăng sáng, đời Hán sao soi, vạn cổ vẫn trống không, trạm nhiên tịch mặc; Sáng nay gió mây, mặt trời, mặt trăng tươi sáng, vạn cổ vẫn không, trạm nhiên tịch tĩnh. Cậu cúi đầu hỏi đất bãi biển nương dâu, biển khô đá nát, núi sông đồi núi vẫn vĩnh hằng; Hoa nở hoa rụng, mùa xuân tươi tốt, mùa thu khô héo, vạn vật theo thời mà biến đổi.

Cứ như vậy, sau ba năm, cuộc sống nơi nhà giữ mộ kết thúc, thư sinh họ Lư trở thành Tăng nhân Hoàn Trung – vì tìm tòi chân đế vũ trụ nhân sinh, ông liền đến chùa Đồng Tử ở Tinh Châu thế phát xuất gia.

Ngay lúc Hoàn Trung lần đầu tiên đẩy cánh cửa lớn của lầu Tàng kinh, ông bị chấn động sâu sắc: Tam Tạng (Kinh, Luật, Luận), mười hai bộ kinh - nội dung của tất cả các kinh giáo chia làm mười hai loại lớn:

1. Trường Hàng

2. Trùng Tụng

3. Cô Khởi

4. Nhân Duyên

5. Bổn Sự

6. Bổn Sanh

7. Vị Tằng Hữu

8. Thí Dụ

9. Luận Nghị

10. Vô Vấn Tự Thuyêt

11. Phương Quảng

12. Ký Biệt hoặc Thọ Ký

Đường hoàng hơn 6500 quyển, dạt dào phong phú ức vạn lời hay, thật là to lớn như đại dương, rộng sâu như biển cả! Thế là, tiểu Hoàn Trung liền trở thành con cá nhỏ, mặc sức bơi lội trong biển cả giáo lý.

Núi sách không có đường chăm chỉ là lối đi, biển học không bờ siêng năng là thuyền. Hoàn Trung nhớ kỹ những lời dạy của cổ nhân, đem sự tích cực mà ông từng có từ thời học kinh điển Nho gia. Suốt mấy năm liền ngày nào cũng vậy, chăm chỉ nghiên cứu kinh Phật, mọi người đều gọi ông là “Tiểu Tam Tạng”. Nên biết, thông thường chỉ có những Cao Tăng Ấn Độ thời xưa, rất tinh thông về Kinh, Luật, Luận mới có thể tôn xưng là Tam Tạng (chính vì thế, Pháp sư Huyền Trang được xưng là Đường Tam Tạng – Tam Tạng Pháp sư đời Đường). Từ đó, có thể thấy, trình độ Phật học của Hoàn Trung thâm hậu như thế nào, mọi người tôn trọng ông như thế nào.

Một hôm, trong chùa có một Thiền tăng mới hành cước đến. Bước đi của ông như mây trắng lướt qua núi sông hang cốc, rất phóng khoáng tự nhiên, cử chỉ của ông như tùng xanh đứng lặng trên đỉnh núi cao, phong cốt vô cùng kiên cường bất khuất. Hoàn Trung nhìn phong vận khí độ của ông vô cùng khâm phục, muốn tìm cách lợi dụng cơ hội để gần gũi. Một hôm, Hoàn Trung mời ông uống trà trong lầu Tàng kinh, trong lời ăn tiếng nói, “Tiểu Tam Tạng” Hoàn Trung không nén được tình cảm, biểu lộ sự đắc ý và cao ngạo rằng mình là kẻ Kinh Luận đầy bụng. Thiền tăng bắt một con mọt sách mập tròn trong kinh sách cười nói với nó: “Ái chà, thằng nhóc nhà ngươi cũng ăn đầy bụng kinh sách, phải chăng cũng có thể gọi là “Tiểu tiểu Tam Tạng”.

Hoàn Trung tự nhiên bối rối bất mãn. Thiền tăng tự nghĩ tự nói , tiếp tục nói với con mọt nhỏ: “Số mạng của ngươi thật tốt, những thứ ăn vào trong bụng là kinh Phật, cho nên suốt ngày cao ngạo ngông nghênh, khoe khoang khoác lác. Thế mà lại được người ta tôn trọng. Mà con mọt sách khác lại không may mắn như ngươi, nó ăn đầy bụng tráp sách bí mật của Võ Công, thì không thể suốt đời cho rằng công phu của mình là số một trong thiên hạ. Nó ra ngoài đi giang hồ, gặp phải con ruồi, con ruồi khinh thường nó, gặp phải con sâu hôi, sâu hôi áp bức nó, ngay cả con bọ hung đen sì cũng dùng quyền tấu chẳng ra gì làm cho nó mũi tím mặt sưng. Nó rất phẫn nộ, tìm đến chủ nhân của cái tráp võ công bí mật, oán trách rằng: “Trong bụng tôi chứa đầy các chiêu thức võ công, mỗi chiêu đều là thiên hạ vô địch: mà các con trùng phá hoại kia chỉ đưa ra những chiêu thức rất thông thường, nhưng tại sao tôi lại luôn bị chúng đánh cho không còn thấy đường sá gì cả? Chủ nhân cười nói: “Người ăn mà không tiêu, chiêu thức càng nhiều, càng vi diệu cũng chẳng ích gì?”

Mặc dù Thiền tăng chẳng nói câu nào đến Hoàn Trung, nhưng ông ta dường như sét đánh bên tai, linh hồn chấn động run rẩy. Đúng vậy, cũng như con mọt sách kia, Hoàn Trung cũng đầy bụng kinh luận nhưng mỗi khi phiền não nổi lên, thì chẳng áp dụng được gì cả. Đạo lý của Phật học ngươi đều hiểu nhưng mỗi lúc đến gần với nghịch cảnh, phiền muộn, trong lòng ngươi đều không thể tự chủ, cứ để cho nó trôi theo. Đợi đến lúc tỉnh táo, đến lúc hối hận, rằm tháng giêng mới dán thần cửa thì đã muộn rồi!.

Tổ sư Thiền tông đem tình huống nầy nói thành “Tặc Hậu Trương Cung” – cường đạo đánh bạn đã chạy xa rồi, bạn mới nhớ đến dây cung mang trên thân!

Nói được ngàn dặm, không bằng đi được một bước.

Hoàn Trung như vừa tỉnh mộng, cảm kích dập đầu đảnh lễ Thiền tăng. Nhưng lúc ông ta ngẩng đầu lên, Thiền tăng đã nhẹ nhàng ra đi, không còn thấy tung tích. Ngoài lầu Tàng kinh, có một giọng ngâm tụng nhẹ nhàng truyền đến:

Núi Bách Trượng, đá Bách Trượng, đá Bách Trượng dưới thiền Bách Trượng.

Tùng lâm từ sau Bách Trượng, gió qua cỏ rạp thiên hạ yên.

Đương thời Cao Túc của Mã Tổ Đạo Nhất là Đại sư Hoài Nhượng, xuất thế hoằng thiền ở núi Bách Trượng. Câu nói của Ngài “Một ngày không làm một ngày không ăn” chấn động từ vạn cổ cho đến ngày nay, trải qua ngàn năm mà như mới. Hoàn Trung mang giày cỏ, xách gậy trúc, đội nón mang túi hành lý đi thẳng đến Giang Tây.

Trên núi Bách Trượng không có kinh sách, cũng không nói về Thiền, thậm chí ngay cả đại điện, tượng Phật cũng không có, có chăng chỉ mỗi ngày toàn tâm toàn lực lao động. Nhưng mà, chính ngay trong lúc toàn tâm toàn ý lao động đó, Hoàn Trung hoát nhiên ngộ thấu thiền cơ, đạt được tâm ấn của Đại sư Bách Trượng!

Ông như đám mây trắng nhẹ nhàng, nhẹ nhàng mà đi, đáp xuống đỉnh Nam Nhạc Hằng Sơn, xây dựng một căn am nhỏ.

Một hôm, có một Đại tông sư đến lên núi – Sư thúc của Hoàn Trung – Nam Tuyền Phổ Nguyện. Nam Tuyền muốn dìu dắt, khen thưởng đề bạt hậu bối một phen - sự dìu dắt của Thiền sư chính là khảo nghiệm nghiêm ngặt. Thiền sư Nam Tuyền hỏi ông: “Thế nào là chủ nhân trong am?”.

Chủ trong am? Chủ trong am cỏ không phải chính là Hoàn Trung sao? Nếu bạn trả lời như thế, bảo đảm sẽ bị ăn đòn của Nam Nhạc. Vì thế, Thiền sư Hoàn Trung giống như bị oan uổng gì, la lên: “Trời xanh, trời xanh!”.

Thiền sư Nam Tuyền không buông tha, hỏi tiếp: “Tạm thời đặt trời xanh qua một bên đi, cía gì là chủ trong am?”

Thiền sư Hoàn Trung không khách khí nữa, ngược lại còn mắng Sư thúc: “Biết tức là biết, không cần phải lải nhải, lải nhải!”.

Thiền sư Nam Tuyền biết, người cháu này đã triệt ngộ.

Sau đó, Thiền sư Hoàn Trung đến Hàng Châu, trú trì tại núi Đại Từ, sử gọi là “Đại Từ Hoàn Trung”. Nhưng mà, Ngài tuy làm Phương trượng nhưng không nói Thiền.

Một hôm, các đệ tử vây chặt ngài đưa lên pháp đường, thỉnh ngài lên pháp toà cao. Ngài đành phải mở lời: “Sơn Tăng ta không biết giải đáp những câu hỏi về Thiền, về Phật gì cả, ta chỉ biết khám bệnh”.

Một đệ tử từ trong chúng bước ra, vừa muốn nói điều gì, ngài lập tức xuống khỏi pháp toà, tự về Phương trượng.

Đệ tử của Thiền sư Nam Tuyền là Triệu Châu đến thăm, hỏi Ngài: “Bát Nhã (Đại trí tuệ giải thoát) lấy gì làm thể?”.

Nói ‘thể’ và ‘dụng’ là một thuật ngữ Phật giáo thường dùng, chỉ cho thể tánh và tác dụng của vạn sự vạn vật. Thể tánh vô hình vô tướng, chỉ có thể từ trong những tác dụng mà thể hiện ra; mà rời thể tánh tức không có diệu dụng gì.

Câu trả lời của Đại Từ Hoàn Trung vẫn là: “Bát Nhã lấy gì làm thể?”.

Triệu Châu vừa cười ha hả vừa ra khỏi Thiền trượng.

Hôm sau, Triệu Châu đang quét rác ngoài sân, Đại Từ Hoàn Trung hỏi ngược lại Ngài: “Bát Nhã lấy gì làm thể?”.

Triệu Châu bỏ chổi xuống, vỗ tay cười lớn - sự bỏ chổi xuống và vỗ tay của ngài cho đến cười lớn đều là sự biểu hiện để thấy tánh của Bát Nhã. Đại Từ Hoàn Trung hiểu được, cười, trở về Phương trượng.

Một vị Thiền tăng muốn ra ngoài hành cước, đến Phương trượng cáo biệt đường đầu Đại Hoà thượng. Thiền sư Đại Từ Hoàn Trung hỏi Thiền tăng đi đâu? Thiền tăng trả lời: “Đi Giang Tây”.

Giang Tây là nơi Thiền tông đang phát triển mạnh mẽ, sư ông Mã Tổ, Sư phụ Bách Trượng của Đại Từ đều đã từng hoằng dương thiền pháp ở đó. Thiền sư Đại Từ Hoàn Trung quay đầu lại nói: “Ái chà, ngươi muốn tới Giang Tây hả? Tốt lắm, phiền ngươi giúp ta một việc có được không?”.

Thiền tăng thưa: “Đại Hoà thượng có việc gì? Xin cứ dặn dò”.

Đại Từ nói: “Ngươi có thể dẫn ta cùng đi không?”.

Thiền tăng thưa: “Có thứ còn hơn Hoà thượng nữa, cũng không thể mang đi”.

Đại Từ cười.

Sau đó, vị Tăng này vân du đến Động Sơn, đem công án này khai sáng tông Tào Động - Đại sư Lương Giá. Đại sư Động Sơn Lương Giá hỏi ông ta: “Cao Tăng, ông trả lời như thế nào?”.

Thiền tăng thưa: “Hoà thượng đến làm gì?”

“Được”. Đại sư Động Sơn thầm bảo. Tiếp đó, Động Sơn lão nhân lại hỏi: “Đại Từ còn có lời Thiền gì không?”.

Thiền tăng thưa: “Đại sư Đại Từ thường nói trên pháp đường; ‘nói được một trượng, không bằng làm được một thước, nói được một thước không bằng đi được một tấc, nói cái làm được, làm cái nói được”.

Đại sư Động Sơn nghe xong rất hoan hỷ, đứng dậy cung kính nói: “Hoà thượng Đại Từ, cắt nghĩa cái lẽ của sự vật, nhưng ta lại không nói như thế”.

Thiền tăng là một người hiểu biết, lập tức hỏi tiếp: “Đại Hoà thượng, Ngài nói sao?”.

Động Sơn Lương Giá ung dung nói: “Làm được điều không nói được, nói được điều không làm được”.

Trong tay đại Tông sư kim là đầu chỉ là não, không gì là không phải Thiền, nói ngang nói dọc cũng giống thiền cơ.

Liên quan đến thiền cơ: Sự Và Lý

Mỹ là quốc gia có phương tiện giao thông hiện đại phát triển sớm nhất và cũng phát đạt sớm nhất trên thế giới. Đồng thời với sự hưởng thụ đầy đủ về tiện lợi giao thông, quốc gia của họ cũng là nước gặp phải những nhức nhối do giao thông hiện đại hoá mang lại sớm nhất. Ban đầu, những ngã tư giao thoa giữa đường sắt và quốc lộ, thường xảy ra va chạm giữa xe hơi và tàu hoả, tai nạn lớn xảy ra xe hỏng người chết. Nước Mỹ, đất rộng người ít, giá cả sức lao động rất quý, không thể ở mỗi ngã tư đều phân bố những nhân viên trực ban. Để giảm thiểu tần độ xảy ra tai nạn nghiêm trọng, tránh tổn thất to lớn về kinh tế, nhắc nhở quảng đại quần chúng lúc đi qua ngã tư đường sắt, chú ý an toàn cho bản thân, họ liền quyết định trong phạm vi toàn quốc, công khai trưng tập những câu cảnh thị an toàn, yêu cầu ngắn gọn trong sángỗo ràng, thông thường, dễ hiểu, làm cho người ta vừa thấy đã hiểu, và có tác dụng nhắc nhở. Từ đó, giảm thiểu xảy ra tai nạn giao thông. Đương cục đường sắt không tiếc tiền của, thường khai triển những cuộc thi về vấn đề này, phát thưởng lớn cho những người sáng tạo những thuật ngữ quảng cáo hay nhất. Thông qua sự chọn lựa, bình phẩm của các chuyên gia, mọi người nhất trí tuyển chọn một thuật ngữ quảng cáo hay nhất ở trong số đó: Dừng, Nghe, Nhìn.

Đồng thời với việc người sáng tạo ra nó đạt được phần thưởng lớn, đoản ngữ đơn giản, rõ ràng này được đương cục đường sắt làm tiêu chí cảnh báo ở ngã tư đường sắt, đoản ngữ rõ ràng dễ thấy xuất hiện nơi tất cả các ngã tư giao thoa là:

“Stop Listen Look!” (dừng nghe nhìn)

Thật là kỳ tích, từ lúc có cảnh báo dễ hiểu rõ ràng này, xe cộ đi qua ngã tư giao thoa đường sắt đều có thể tự giác tuân thủ, một dừng, hai nghe, ba nhìn, không tuỳ tiện hành sự nữa, tỷ lệ xảy ra tai nạn tụt xuống nhanh chóng.

Thế mà, một hôm có một chiếc xe con lúc đi qua ngã tư giao thoa giữa quốc lộ và đường sắt, chẳng hề hiểu về bảng cảnh báo “dừng, nghe, nhìn”, cứ băng thẳng qua… kết quả chiếc xe hơi lỗ mãng và chiếc tàu hoả gào thét chạy đến, tiếp xúc thân mật, chiếc xe chạy nhanh bị tông văng ra rất xa, rất xa, người lái xe chết ngay tai chỗ!

Sau này, lúc cảnh sát địa phương điều tra, họ vô cùng kinh ngạc, vô cùng bất ngờ, đương cục đường sắt lại càng kinh ngạc gấp bội, chẳng thể tin được. Bởi vì họ phát hiện từ giấy chứng minh của người chết, ông ta - người hy sinh trong tai nạn xe hư người chết lần này - lại chính là người đã đoạt giải thưởng lớn trong lần nọ! Chính là ông ta, người đã sáng tạo ra thuật ngữ cảnh báo “StopListenLook”!

Có thể nói, trên thế giới không có ai biết rõ hơn, hiểu rõ hơn ông về đạo lý “dừng, nghe, nhìn”, thế mà, cuối cùng thân mạng cũng tiêu vong.

Câu chuyện hiện thực tàn khốc này làm chúng ta đau lòng, run sợ lạnh xương sống. Làm thầy giáo dạy dỗ người khác rất dễ, làm học sinh áp dụng vào thực tế rất khó: Mọi người đều biết ở trên cao ngăn cấm mọi người, bản thân phải chăng có thể làm được, bước đến được thật địa? Chỉ nói thì không được, chỉ học tập lý lẽ mà không làm theo, kết quả của nó tất nhiên cũng giống như người phát minh ra thuật ngữ quảng cáo đẹp đẽ kia. Chúng ta nên nhớ kỹ: “Nói được một trượng, không bằng làm được một thước”.

TẮC THỨ 15: KHI NGÀY TẬN THẾ ĐẾN GẦN

Thiền sư Đại Tuỳ Pháp Chân, họ Vương, quê quán ở Tứ Châu, Tứ Xuyên (nay là vùng giáp ranh giữa huyện Diêm Đình và huyện Tam Đài). Ngài đồng chân vào đạo. Sau khi thọ giới cụ túc, cũng như các bậc tiền bối của ngài vậy, qua sông đi vân du qua phía Đông, xuống Hạ Giang hành cước tham học, tìm Thầy học đạo. Ngài đã từng bái yết qua các vị: Dược Sơn, Đạo Ngô, Vân Nham, Động Sơn,… tổng cộng hơn sáu mươi vị đại Thiền sư, còn hơn cả Bồ Tài Đồng Tử nổi tiếng trong kinh Hoa Nghiêm hơn năm mươi ba lần tham yết. Sau này, Ngài đến núi Quy Sơn ở Đàm Châu (nay là Trường Sa). Đương thời, Đại sư Linh Hựu người sáng lập ra tông Quy Ngưỡng đã viên tịch, người kế nhiệm Quy Sơn trượng tịch là Đệ tử của Đại sư Linh Hựu – Thiền sư Trường Khánh Đại An.

(Thiền sư ngày xưa thường lấy đạo tràng mình trú trì để tự xưng. Thời kỳ này, Thiền sư Đại An cũng lấy Quy Sơn để tự xưng và vì thế Đại An Quy Sơn không phải là Linh Hựu Quy Sơn. Chính vì như vậy, rất nhiều trước tác sau này, bao gồm cả “Thiền Học Tuỳ Bút Như Đằng Ỷ Thọ” của Tiến sĩ Linh Mộc Đại Chuyết đều bị nhầm lẫn, thấy hai chữ Quy Sơn liền cho rằng là ngài Linh Hựu. Trên thực tế, người mà Thiền sư Đại Toại Pháp Chân lúc đó đến núi Đại Quy tham kiến là người kế nhiệm trượng tịch Quy Sơn – Thiền sư Đại An, xem Tùng Thư “Thiền Đông Thiền Tây, Đại An Mục Ngưu”).

Thiền sư Pháp Chơn đảm nhiệm làm đầu bếp ở Quy Sơn - một vị Tăng khổ hạnh đốt lửa nấu cơm. Trong mấy năm, Ngài ăn không cầu no, ngủ không cầu ấm, việc không từ mệt nhọc, khí tiết không giống người phàm tục, ngài thân làm Thiền tăng nhưng lại không thấy ngài tham thiền hỏi đạo, thậm chí ngài chưa một lần hỏi đường đầu Hoà thượng những câu hỏi về Phật, về Thiền.

Thiền sư Đại An mắt lanh liếc qua đã biết rõ: Pháp Chân này tu hành tinh tấn, công hạnh thuần nhất, tuyệt đối không phải là kẻ dốt nát, nhưng ngài thường chẳng mở lời, không biết kiến địa của ngài rốt cuộc như thế nào?

Một hôm, Thiền sư Đại An thong thả đi đến nhà bếp khói lửa mù mịt, Pháp Chân hoàn toàn không vì sự có mặt của Sư phụ mà ngừng công việc đang làm, gật đầu chào, sau đó đến bếp lò đốt lửa đỏ rực – ái chà, xem ra muốn bảo ông ta chủ động mở lời còn khó hơn cả lên trời. Thế là, Thiền sư Đại An đành tự hỏi: “Pháp Chân à, ngươi đến đây đã được mấy năm rồi, vì sao chưa từng hỏi một câu Thiền nào?”.

Thiền sư Pháp Chân thưa: “Bảo con hỏi gì đây?”.

Câu nói gọn lỏn ngớ ngẩn này, chút nữa làm Sư phụ Đại An tức chết đi được. Thế mà Đại An tâm sáng như gương, ngài biết rõ câu nói tuồng như ngốc nghếch của Pháp Chân là cố ý giả vờ ngớ ngẩn, và trong đó dường như ẩn chứa thiền cơ dào dạt. Thiền sư Đại An từ bi vô hạn, không tiếc kéo bùn xách nước, dấn thân thảo khấu, tiếp tục đáp: “Vì sao ngươi không hỏi xem hế nào là Phật?

Thế nào là Phật ? thế nào là Thiền? thế nào là ý của Tổ sư từ Tây Trúc đến? thế nào là đại ý của Phật pháp?.... ngàn vạn năm nay, hình như mỗi thiền giả đều không chỉ một lần hỏi qua các bậc Sư Trưởng những câu hỏi như vậy. Mọi người đều muốn được một đáp án đầy đủ từ miệng Sư phụ, còn Thiền sư Pháp Chân thì sao?

Thiền sư Pháp Chân nghe Sư phụ nói ra lời này, ném que khều lò trong tay xuống, hai tay to lớn đen sạm bưng miệng Thiền sư Đại An lại – Chân Đế của Phật pháp, há có thể nói sao? Cho nên, lão Hoà thượng ngài còn phải mở lời quý sao!

Đại An bị đệ tử của mình bôi tro than đầy miệng, lại vui mừng đến nổi dường như ăn được thứ trân quý ngon ngọt nhất trên đời. Ngài liên hồi vỗ về lên vai Pháp Chân, vui vẻ nói: “Ngươi thật đã lãnh ngộ tinh túy của Thiền”.

Đại An, có thể là vị đại tông sư dạy dỗ cả một ngàn năm trăm người, câu nói này của ngài đủ để khiến cho Pháp Chân tiếng tăm lừng lẫy. Vì thế, Thiền tăng xa gần tìm đến cửa, tìm đến bếp lửa khói bay mù mịt để thỉnh giáo pháp yếu Thiền với Thiền sư Pháp Chân. Pháp Chân buông cây khều lò xuống đất, không còn tông tích nữa.

Sau này, đúng ba năm khắp nơi trên cả nước, phía Nam Bắc sông lớn tất cả tòng lâm thiền tông đều chưa phát hiện ra hình bóng của Thiền sư Pháp Chân. Lẽ nào, ông ta đã từ trái đất bốc thành hơi rồi sao?.

Một người đoan chánh như thế, đương nhiên sẽ không mất đi một cách vô cớ như vậy. Nói là mất tông tích, chẳng qua chỉ là ông cố ý ẩn tánh mai danh mà thôi. Điều này chẳng phải núi Đại Quy ở Hồ Nam thiếu đi một người đầu bếp nhóm lửa nấu cơm, dưới núi Bằng Khẩu ở Thiên Bành Tứ Xuyên thêm một người tốt bụng pha trà dâng nước – ông chính là Thiền sư Pháp Chân. Trên núi Bằng Khẩu có một ngôi chùa Long Hoài quy mô rộng lớn, Pháp Chân không ở trong chùa mà dựng một gian nhà cỏ đầu đường dưới núi, cung cấp nước, nhà trọ những lữ khách qua lại, những khách hành hương lên chùa lễ Phật.

Nước trà đậm ngon! Bếp trà bên đường này, Thiền sư Pháp Chân vừa nấu đó mà đã được ba năm. Một lần nọ, ngài vào trong núi sâu hái trà hoang, vô ý phát hiện ra một ngôi chùa cổ - chùa Đại Tuỳ. Ở đây, dãy núi bao quanh, các núi khoe sắc, rừng sâu rậm rạp, nước suối trong mát, thật là một đạo tràng tĩnh tu tuyệt hảo.

Mây núi mấy ngàn trùng điệp điệp

Hang sâu đường xa chẳng bóng người

Suối trong xanh nhiều thắng cảnh

Đến đây chim hót hợp lòng người. (Chùa Hàn Sơn)

Càng thần kỳ hơn đó là trong chùa có một cây cổ thụ, chu vi đến bốn trượng, thân cây nghiêng về phía Nam có một miệng hang, vừa vặn như một con đường tự nhiên hình thành một cửa nhỏ, trong lỗ trống của cây, rộng rãi bằng phẳng, không phải giả tu sức, mà là chỗ ở kỳ diệu tự nhiên hình thành. Thiền sư Pháp Chân dời đến ở đó, tên nó là: “Mộc Thiền Am”. Từ đó, pháp hiệu của Ngài cũng tự nhiên đổi thành “Đại Tuỳ Pháp Chân”.

Đại Tuỳ Pháp Chân ở trong hang cây mười năm, chưa từng đi nơi khác, tuy hình bóng Ngài không xuất hiện xuống núi, nhưng tiếng tăm vang xa. Đương thời, quan viên địa phương Tứ Xuyên nhiều lần đến thỉnh ngài xuống thành đô phồn hoa cúng dường, ngài đều lấy lý do tuổi già sức yếu, khéo léo từ chối. Ngài có thể cự tuyệt không xuống núi, nhưng không có cách gì để ngăn chặn dòng người học thiền bốn phương đổ về. Họ từ ngàn dặm xa xôi về đây truy tìm tông tích, đua nhau đến học thiền. Thiền sư Đại Tuỳ Pháp Chân chẳng còn cách nào đành khai đàn thuyết pháp:

“Tánh này vốn thanh tịnh đầy đủ vạn đức, nhưng do hai duyên nhiễm ô và thanh tịnh mà có sai khác, cho nên chư thánh ngộ được điều đó luôn dùng thanh tịnh mà trở thành giác ngộ chánh đạo. Phàm phu mê muội, cứ dùng nhiễm ô, chìm đắm luân hồi. Thể của nó không hai, cho nên kinh Bát Nhã nói: “Không hai không chia hai, không khác không chia lìa vậy”.

Quan điểm này có thể nói là tinh tuý của Thiền tông. Tất cả chúng sanh tự tánh không có chút sai khác nào, một niệm thanh tịnh hoát nhiên đốn ngộ, chúng sanh thành Phật; Một niệm mê lầm, linh khiếu nhiễm ô, Phật tức chúng sanh.

Thiền sư Đại Tuỳ Pháp Chân ẩn tu nhiều năm, công hạnh thâm sâu, lãnh ngộ triệt để, vì thế ngài giảng kinh thuyết pháp, nói rõ ngàn dặm như gang tấc, nhấc Thái Sơn nhẹ tựa lông hồng. Thiền thâm sâu khó hiểu đến miệng ngài, tay ngài trở thành sống động, thú vị dạt dào.

Am cây của ngài nghiêng về bên bờ, thường có một con rùa đến ẩn hiện, đệ tử chỉ rùa đen hỏi: “Tất cả chúng sanh đều là da bọc xương, chúng sanh này tại sao lại là xương bọc da?”.

Thiền sư Đại Tuỳ Pháp Chân thuận tay cởi chiếc giày cỏ dưới chân, che trên lưng rùa. Đệ tử không thể đối đáp được nữa.

Có một vị hành giả nghe nói rất có công phu tu tập. Một hôm, ông ta dẫn rất nhiều Thiền nhân ngưỡng mộ ông đến tham vấn. Thiền sư Đại Tuỳ hỏi: “Người tham thiền gọi phía đông là gì?”.

Hành giả nói: “Không thể gọi là phía đông”.

Thiền sư Đại Tuỳ mắng: “Con lừa thối, không gọi là phía đông, gọi là gì?”

Lúc hành giả nói: “Không gọi là đông”, ông ta đã đúng, vì vũ trụ mênh mômg, hoàn toàn không có phương hướng cố định. Nhưng lúc hành giả nói “phía đông không gọi là phía đông”, Thiền sư Đại Tuỳ chỉ ông ta là con lừa thối, Thiền sư Đại Tuỳ cũng đúng. Bởi vì Phật pháp không trái thế gian pháp, phía đông nếu như không gọi là phía đông thì gọi là gì? Nói theo thói quen thông thường của chúng ta, phía đông là phía đông, phía tây là phía tây. Điều này, từ khi văn minh bắt đầu đã trở thành nhận thức chung, nếu phía đông lại không phải là phía đông, phía tây không phải là phía tây, thì tất cả há chẳng phải loạn lên hết sao?

Hành giả không đáp, những người đi theo ông thấy như vậy đều tản ra hết.

Thiền, quý ở chỗ chất phác, cứ nói xa xôi huyền diệu thì càng xa với thiền.

Một vị Tăng vân du cát bụi dặm trường, từ phương xa đến, tự nhiên có điều muốn hỏi: “Thế nào là pháp yếu của chư Phật?”

Đại Tuỳ đưa cao phất trần, sau đó hỏi rằng: “lãnh hội không?”.

Tăng vân du không có cách gì để lãnh hội thiền ý trong đó, cứ lắc đầu mãi. Thiền sư Đại Tuỳ nói: “Đây chẳng phải là cây phất trần làm bằng đuôi hươu sao?”.

Tăng vân du tự nhiên có chút lãnh ngộ: trúc xanh, chẳng có gì không phải là pháp thân; hoa vàng đều là Bát Nhã. Pháp yếu của Phật chẳng phải cái gì bí mật cả, phất trần đuôi hươu cũng là thể hiện của pháp Phật!

Có Thiền tăng hỏi Thiền sư Đại Tuỳ: “Tự ngã của ta là gì?”.

Đại Tuỳ chỉ lỗ mũi mình trả lời: “chính là ta đây này!”.

Thiền tăng giống như một con cá chép hoạt bát, đột nhiên phát hiện long môn động mở. Thế là, nó cố sức nhảy lên trên.

“Vậy thì, bản thân Hoà thượng là gì?”.

Tay của Thiền sư Đại Tuỳ bỗng nhiên chỉ vào đầu Thiền tăng: “Chính là bản thân ngươi”.

Chỉ bạn nói là tôi, chỉ tôi nói là bạn, thế nào là chính mình? Lúc đối diện không nói!

Một vị đệ tử đứng bên cạnh nghe được, tâm hoa rộ nở, từ trong đại chúng bước ra, chắp tay lễ bái, thưa rằng: “Thế nào là việc của Đại Tuỳ?”.

Trên thực tế, ông ta đang biến tướng để hỏi thế nào là thiền yếu của Đại Tuỳ?.

Câu trả lời của Thiền sư Đại Tuỳ là: “Đông Tây Nam Bắc”.

Hỏi một nơi mà trả lời một nẻo, bốn tức là một, một tức là bốn, Đông Tây Nam Bắc đều là Thiền.

Đệ tử hỏi thêm: “Đây chính là nói Phật pháp biến khắp nơi, vậy thì bảo con phải dừng chân ở chỗ nào?”

Đại Tuỳ cười ha hả, ngâm một câu lưu danh thiên cổ:

“Cá nhảy từ biển lớn,

Trường không mặc chim bay”.

Đệ tử nghe được lời này, ngửa mặt lên trời hét một tiếng dài, phẩy bụi mà đi!

Đúng vậy, Phật pháp biến khắp nơi, đối với ta có chướng ngại gì? Chỉ cần không chấp trước Phật pháp, đừng trói bản thân vào trong đó, cũng giống như cá lội trong biển, chim bay giữa trường không: Sóng xanh mênh mông đưa ta bơi lội ra ngàn dặm; gió mạnh thổi bay nhờ sức gió đưa ta lên tận mây xanh!

Một vị Thiền tăng đến cáo biệt, Đại Tuỳ hỏi ông ta: “Đi đâu vậy?”.

Thiền tăng thưa: “Đến tĩnh tu ở núi phía tây”.

Đại Tuỳ tự nhiên nổi phong ba, bỗng nhiên run rẩy đưa ra thiền cơ sắc lạnh: “Ta đến núi Đông kêu gọi ông, ông có thể đến đó được không?”.

Người ta cư trú ở núi tây, ông lại đến phía đông mà gọi, tự nhiên chẳng cách gì nghe được, cũng chính vì không thể nghe tiếng mà đến cho nên Thiền tăng trả lời “không thể”.

Đại Tuỳ lắc đầu nói: “Ông chưa đủ tư cách ở trong am”.

Đông và Tây, thực ra có bản chất khác biệt, tương phản nhau sao? Một trái dưa hấu tròn, bổ ra một nhát, phân thành nửa nọ và nửa kia, hai nửa đối lập sao?.

Cổ nhân nói, chưa phá vỡ được tham ái vốn có, chưa thể ở núi, còn chưa khai ngộ chưa thể khế nhập cảnh giới động tĩnh nhất như, mọi vật và bản thân bình đẳng, sai biệt không còn, tâm lý của bạn huyên náo như chợ đông, làm sao có thể tĩnh tu trong núi sâu tịch mặc được! trong đô thị hiện đại, rất nhiều người hướng đến cuộc sống tịch tĩnh trên núi, nhưng giả như, thực sự đem họ vào trong núi sâu không có một bóng người, thì chưa tới một tháng họ đã phát điên lên rồi!

Một vị đệ tử khác cũng đến mộc am để từ biệt ra đi, Thiền sư Đại Tuỳ hỏi ông ta đi vân du nơi nào?

Đệ tử thưa: “Đến núi Nga Mi để bái Bồ tát Phổ Hiền”.

Núi Nga Mi ở mé phía Tây Nam Bồn Địa Tứ Xuyên, vì đứng xa nhìn hai núi đối nhau như lòng mày cao (Nga Mi), nên gọi là Nga Mi. Cũng có người nói: núi này mây bao quanh xanh biếc, nhìn xa như tóc đen trang sức, thật giống như lông mi con ve sầu, nhỏ mà dài, rất đẹp, cho nên gọi là núi Nga Mi. Trong bộ kinh nổi tiếng của Phật giáo ‘kinh Hoa Nghiêm’ nói: “Phương Tây Nam có một ngọn núi nổi tiếng sáng rỡ, từ xưa đến nay, chư Bồ tát ở trên đó, hiện có Bồ tát Hiền Thắng (Phổ Hiền) và quyến thuộc của Ngài (các Đệ tử) 3000 vị thường ở trong đó thuyết pháp. Núi Nga Mi nửa đêm có ngọn đèn thánh thần kỳ, ban ngày có Phật quang thần thánh, một vùng đầy ánh sáng, vì thế giáo đồ Phật giáo cho rằng núi Nga Mi chính là núi quang minh trong kinh Hoa Nghiêm, và tự nhiên cũng chính là đạo tràng của Bồ tát Phổ Hiền. Nga Mi và Ngũ Đài, Phổ Đà, Cửu Hoa được gọi chung là Tứ Đại Danh Sơn của Phật giáo.

Thiền sư Đại Tuỳ nghe nói ông ta muốn đi lễ bái Bồ tát Phổ Hiền, liền đưa phất trần lên nói: “Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền đều ở nơi đây”.

Hai vị đại Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền là trợ thủ đắc lực của Phật tổ Thích Ca Mâu Ni, làm sao đều chạy đến chỗ phất trần của Thiền sư Đại Tuỳ được? Quốc sư Huệ Trung đệ tử của Lục Tổ nói: “Lão Tăng nhổ một cây cỏ làm kim thân một trượng sáu của Phật, lấy kim thân một trượng sáu làm một cây cỏ”. Lão Hoà thượng Hư Vân một Cao Tăng trong thời cận đại, sau khi khai ngộ, nói: “Sơn hà đại địa là Như Lai”. – Đây chính là cảnh giới của Thiền giả.

Vị Tăng này lãnh hội, dùng tay vẽ trong không trung một vòng tròn, ném ra sau lưng rồi lễ bái Sư phụ.

Tướng hình vòng tròn, tượng trưng cho tròn đầy, nhưng mà trong tâm ông không còn gì ngăn ngại, cả sự tròn đầy cũng không nhận, cũng phải ném đi, đức Phật thường dạy chúng ta: Phật pháp là chiếc thuyền để qua sông, đến bờ kia rồi kịp thời bỏ đi. Kinh Kim Cang dạy: “Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức là thấy Như Lai” .

Đại sư Đại Tuỳ thầm chấp nhận, gọi thị giả đến bảo: “Đi lấy một tách trà, cho sư Tăng này uống”.

Có vị Tăng hỏi Thiền sư Đại Tuỳ: “Bạch Hoà thượng, sau khi Ngài 100 tuổi, sẽ truyền pháp cho người nào?”.

Đại Tuỳ cười, nói: “Cột trụ lồi (cột trụ ở trong phòng bày ra bên ngoài), lò lửa”.

Thiền tăng ngạc nhiên hỏi: “Lò lửa, cột trụ lồi”.

Có đệ tử hỏi: “đến lúc sống, chết thì như thế nào?”.

Thiền sư Đại Tuỳ trả lời: “Gặp trà uống trà, gặp cơm ăn cơm”.

Chết, chắc chắn là sự phủ định triệt để nhất, đả kích lớn nhất đối với người thường lấy “Ngã” làm trung tâm. Vì thế, đệ tử còn có thói quen chấp ngã kia bèn hỏi tiếp: “Uống trà ăn cơm, ai nhận cúng dường?”.

Thiền sư Đại Tuỳ trả lời rất vi diệu: “Thích hợp lấy bình bát, chai lọ”.

Công án này khai thị cho chúng ta một vấn đề lớn lao của đời người. Chết là vấn đề mà mỗi người đều phải đối diện. Một người, bất luận là sáng suốt như thế nào cũng không thể tránh được cái chết đến gần. Cũng vậy, một người dù ngu xuẩn thế nào cũng không the ngu đến nổi không biết làm sao chết. Lúc thần chết đến gần, Thiền sư Đại Tuỳ Pháp Chân dạy cho chúng ta thái độ là: “Gặp trà uống trà, gặp cơm ăn cơm”. Kiểu tuỳ duyên mà an nhàn này không phải là cố làm ra vẻ giải thoát, càng không thể tê liệt bất nhân, mà là vì trong tâm Thiền sư ngộ đạo lúc nào cũng sáng suốt không mê lầm, có thể làm chủ mọi nơi, cho nên có thể cười ngạo với sanh tử.

Một Thiền tăng hỏi: “Kiếp hoả đang cháy, đại thiên thế giới đều hư hoại, không biết ‘cái này’ có hư hay không?”.

Trong vũ trụ quan của Phật giáo, quá trình thành lập, tiếp tục, tan hoại thế giới rồi chuyển biến thành một thế giới khác, có thể chia ra thành bốn thời kỳ: thành, trụ, hoại, không gọi là bốn kiếp. Kiếp hoại (tiếng Phạn gọi là Sam! Vaita- kalpa) - Thời kỳ thế giới huỷ hoại, đầu tiên xuất hiện là do vì mặt trời bạo phát mà dẫn đến hoả tai, trời Sơ thiền của cõi Sắc giới trở xuống đều nóng chảy trở thành tro bụi. Đây chính là Kiếp Hoả (quan điểm về Kiếp Hoả này và giới khoa học suy luận cho rằng hành tinh như mặt trời biến thành siêu tân tinh rất giống nhau).

“Cái này” mà Thiền tăng nói đến chỉ cho tự tánh. Trong kinh Phật nói: tự tánh không sanh diệt, không dao động. Cho nên, ông ta lại hỏi đại thiên thế giới đều huỷ hoại, tự tánh có huỷ hoại không?

Thiền sư Đại Tuỳ đáp: “Hư hoại”.

Thiền tăng thưa: “Đã là như vậy thì đi theo ông ta đi”.

Thiền sư Đại Tuỳ đáp: “Đi theo ông ta”.

Vị Tăng này căn cứ theo ý nghĩa trong kinh dạy mà hỏi, ông không hiểu ý của Đại Tuỳ, cho rằng không phù hợp với kinh dạy, cho nên nghênh ngang bỏ đi. Đúng vậy, trong kinh Phật từng nói: khi vũ trụ đến gần kiếp hoại, đại thiên đều huỷ hoại. Thế mà, ông ta chưa lãnh hội ý thú ở trong đó nên cho rằng ngoài thế giới vật chất (hiện tượng) có một thế giới bản thể (tự tánh) thuần tuý, hai thế giới này tách rời nhau, cho nên ngoài sanh diệt, có một thứ không sanh không diệt; cũng chính là ngoài sự sống chết của con người, còn có sự tồn tại của Niết bàn. Đây là một kiến giải mà chúng ta thường nảy sinh ngộ nhận.

Nên biết, Sắc (vạn sự vạn vật) chẳng khác không (chân đế), không chẳng khác sắc, sanh tử tức Niết bàn.

Vị Tăng này tuy chưa khế ngộ tông chỉ của Thiền sư Đại Tuỳ nhưng tinh thần cầu đạo của ông rất tha thiết, trong tâm lúc nào cũng chứa đầy những vấn đề khó hiểu này, đi thỉnh giáo khắp các Thiền sư Nam Bắc trong tòng lâm, ông phải chạy đến mấy ngàn dặm đến núi Đầu Tử ở An Huy (nay là huyện Đồng Thành). Thiền sư Đầu Tử Đại Đồng là đại tông sư nổi tiếng trong thiên hạ (xem tùng thư ‘Thiền Sơn Thiền Thuỷ’ tắc thứ bảy). Ông hỏi vị Tăng mới đến: “Ông từ đâu đến?”

Thiền tăng trả lời: “Đại Tuỳ ở Tứ Xuyên”.

Thiền sư Đầu Tử Đại Đồng lại hỏi: “Thiền sư Đại Tuỳ có lời thiền gì chăng?”.

Thiền tăng đem công án “kiếp hoả” này nói cho Thiền sư Đầu Tử nghe, Thiền sư Đầu Tử Đại Đồng nghe xong, từ thiền sàng đứng dậy, trịnh trọng đốt hương hướng về Tứ Xuyên lễ bái, rất cảm khái, nói: “Tứ Xuyên có cổ Phật xuất thế”. Sau đó, ông nói với vị Tăng kia: “Ngươi mau về Tứ Xuyên, sám hối Thiền sư Đại Tuỳ đi”.

Thế mà, đợi đến lúc Thiền tăng kia ngược dòng Trường Giang mà lên, về đến Tứ Xuyên thì Thiền sư Đại Tuỳ Pháp Chân đã viên tịch rồi. Ông lần nữa đi về phía Đông mấy ngàn dặm, lần thứ hai đến núi Đầu Sơn, Tổ sư Đại Đồng cũng đã thiên hoá. Đến đến đi đi một chuyến vô ích!

Mấy trăm năm sau, Cao Tăng Vân Môn Tuyết Đậu lại ngâm tụng công án rằng:

Lập mối nghi trong ánh lửa kiếp hoả,

Nạp Tăng do đắm hai cửa lớn,

Đáng tiếc một câu theo ông ta,

Vạn dặm xa xôi về một mình”.

Liên quan đến thiền cơ: Thành Trụ Hoại Không.

Ngược dòng lịch sử về mười lăm tỷ năm về trước, vũ trụ là một kỳ điểm ‘không vô’ thể tích bằng không, mật độ to lớn vô hạn, nhiệt độ nóng vô cùng. Do vì siêu chặt và siêu nóng, kỳ điểm ‘không vô’ phát ra tiếng nổ và không ngừng bành trướng hình thành nên vũ trụ hiện tại. Quá trìng bành trướng này tương lai ắt sẽ xảy ra sự chuyển động ngược lại, dần dần thu nhỏ. Trong quá trình ‘đại nén nhỏ’ này một lần nữa lại phát ra tiếng nổ như thế, vũ trụ lại biến thành kỳ điểm không có thể tích.

Đây chính là phân tích về vũ trụ của một nhà khoa học thiên tài Giáo sư Tư Đế Phần Hoắc Kim ở trường Đại học Kiếm Kiều Anh Quốc. Giả thuyết này được giới khoa học ngày nay công nhận (bởi vì chân đế của khoa học đều là tương đối).

Phật giáo cho rằng vũ trụ vô biên không ngằn mé, không đầu không cuối. Lấy quan điểm suy luận này cho rằng đại nén nhỏ không thể là chuyển động ngược của quá trình tiếng nổ xưa kia, mà phải là tiếng nổ ra ngoài hiện nay chính là đang hướng đến sự nén nhỏ, cũng chính là nói hiện tại đang trong quá trình nén chặt rồi!

Nói chính xác hơn, từ giờ khắc tiếng nổ lớn kia xảy ra, đã bắt đầu tiến trình thu nhỏ. Đạo lý này rất giản đơn, như sinh mạng của một con người vậy, từ khi sinh ra đã bắt đầu đi đến cái chết.

Người viết không hiểu thiên văn cho nên đưa ra lời lẽ sai lầm này, muốn mượn vấn đề này để trình bày phương thức tư duy của Thiền.

Lúc một hạt giống nảy mầm chúng ta thường sẽ vui vẻ nói: nó đang lớn. Lúc nó sanh thành thực vật rồi trở thành khô héo, chúng ta sẽ buồn bã nói: nó đã chết rồi. Từ góc độ tư duy của Thiền thì quá trình nảy mầm, trưởng thành của hạt giống cũng là hướng đến quá trình chết. Vì thế, lúc nó vừa nảy mầm cũng chính có thể nói nó đang chết. Mà cái chết của nó cũng chính là bắt đầu tái sanh (hạt giống sanh thành của nó), cho nên cũng có thể nói: chính vì chết nên mới có cơ hội làm cho nó được tiến hoá, mới mẽ. Chính vì như thế, sự vật mới có thể phát sanh, xã hội mới có thể tiến bộ, vạn vật mới có thể tiến hoá, vũ trụ mới có thể diễn biến.

Phương thức tư duy này có điểm gì tốt?

Lúc chúng ta đắc ý, có thể hiểu rõ ràng rằng vui đến tột đỉnh sẽ có nguy cơ suy tàn, không thể quên đi điều đó mà phải nắm chắc sự thật tự nhiên, thuận theo quy luật phát triển, cần câu trăm thước tiến bộ trở lại; Lúc chúng ta đối diện với khó khăn nghịch cảnh, có thể phát hiện sanh cơ mới trong đó, từ đó mà phấn chấn tinh thần, làm cho tâm lý và hành vi của chính mình càng thêm hợp lý. Suy luận như vậy, cuộc sống của chúng ta càng thêm thoải mái tự tại, cuộc đời của chúng ta có thể giải thoát một phần, vui vẻ một tí, thậm chí nhờ tư duy này mà chúng ta có thể cười với bệnh tật, ngạo nghễ nhìn sanh tử.

Hơn 1000 năm trước, Thiền sư Đại Tuỳ Pháp Chân là tấm gương cho chúng ta. Thiền sư Đại Tuỳ Pháp Chân lúc về già, có một hôm, khi đệ tử đến tham yết, ngài cố ý méo miệng, mặt mày nhăn nhó, giả bộ trúng gió. Sau đó, ngài hỏi đệ tử: “Còn có ai có thể trị cái miệng cho ta không?”.

Chúng Tăng rất lo lắng, tranh nhau đi mời thầy thuốc. Trong vòng một trăm dặm, những vị thầy thuốc giỏi kia đều được mời đến chẩn mạch cho Đại sư Đại Tùy, Đại sư Đại Tuỳ Pháp Chân lại một mực cự tuyệt. Bảy ngày sau, Ngài tự vả vào miệng mình mấy cái, sửa cho miệng ngay lại, khôi phục diện mạo ban đầu. Ngài mượn việc này để khai thị cho đệ tử rằng: “Như nhiều lúc vỗ hai miếng da này, đến nay chưa có ai trị được”.

Nói xong Thiền sư Đại Tuỳ Pháp Chân cười một cái, nhẹ nhàng vẫy tay,đoan tọa mà ra đi.

TẮC THỨ 16: NGƯỜI TRONG GIẾNG

Thiền sư Ngưỡng Sơn Huệ Tịch một trong những người sáng lập ra tông Quy Sơn, ngài bẩm tánh rất kiên cường và có ý chí. Để tỏ rõ lòng quyết tâm xuất gia đối với cha mẹ mình, ngài đã không chút do dự cầm dao thái rau chặt hai đầu ngón tay. Ngài tuổi trẻ, lúc còn là một Sa di nhỏ, đã trèo đèo lội suối, trăm cay ngàn đắng đi tham học khắp nơi trong chốn tòng lâm.

Các Thiền tăng xưa vân du Bắc Nam sông lớn, trong ngoài Trường thành, vào hang sâu lên núi cao đều nhờ hai bàn chân. Những gian nan hiểm trở có thể nghĩ đến mà biết được. Một đôi giày cỏ, trải qua ngàn dặm quan san. Một bình bát đựng đầy buồn vui tuổi trẻ. Đầu gậy treo trời trăng, ca sa đắp sương gió, bụng đói hái cỏ hoa, núi sông làm bạn lữ…

Huệ Tịch rốt cuộc tuổi vẫn còn rất trẻ, vì nhiều năm bôn ba quá lao nhọc, khiến chân ngài đã bị tàn tật, thành một Sa di bị cà thọt. Nhưng ngài vẫn không chịu nghỉ ngơi, vẫn kéo lê chân đau, đạp trên ngàn dặm trường. Năm đó, ngài từ Quảng đông đi đến Hồ Nam leo lên núi Thạch Tương ở Đàm Châu.

Núi Thạch còn gọi là núi Sương Hoa, nằm cách huyện Lưu Dương Hồ Nam về phía Tây Nam 46km, phía Nam giáp Lễ Lăng, phía Bắc giáp Động Dương. Chùa Sùng Thắng trên núi, là một tổ đình Thiền Tông nổi tiếng. Đời nhà Đường, Thiền sư Khánh Gia dừng lại đó hai mươi năm hoằng dương pháp thiền. Năm Bảo Nguyên thứ hai niên hiệu Nhân Tông đời Bắc Tống( 1039 Tây lịch) Sở Viên Thiền hoằng dương tông phong Lâm Tế ở núi này, khai mở ra thời kỳ toàn thịnh của tông Lâm Tế. Môn hạ của Ngài lại phát triển thành hai phái Hoàng Long và Dương Kỳ, và cuối cùng đã hoàn thành cơ cấu Ngũ Gia Thất Tông của thiền tông Trung Quốc.

Huệ Tịch đến núi Thạch Sương còn sớm hơn Đại sư Kháng Gia mấy mươi năm. Lúc đó chùa Sùng Thắng vừa mới sáng lập, Thiền sư Tánh Không đệ tử của Bách Trượng Hoài Hải lần đầu tiên đem hạt giống thiền gieo rắc trên mảnh đất thần kỳ này. Thiền sư Tánh Không vừa gặp Huệ Tịch đã rất coi trọng, bảo làm thị giả cho mình để tiện ngày đêm rèn luyện.

Một hôm một vị Tăng vân du lên núi, hỏi Thiền sư Tánh Không rằng: “Thế nào là ý Tổ sư từ Tây Trúc đến?”

Thiền sư Tánh Không trả lời: “Giả như có một người rơi vào giếng khô sâu đến ngàn trượng, không thể nhờ công cụ như dây thừng, mà có thể đem người nay ra khỏi giếng, lúc đó ta sẽ nói cho anh ta ý của Tổ sư từ Tây Trúc đến”.

Đáng tiếc, vị Tăng này không khế nhập Thiền yếu trong lời khai thị của Thiền sư Tánh Không, ông ta nghĩ rằng: đưa ra vấn đề tai quái xảo trá như thế, chẳng qua cũng chỉ có ý kéo lằng nhằng, có dính dáng gì đến thiền đâu. Thế là , mặt lộ vẻ giận dỗi, nên chẳng khách khí nói rằng: “Gần đây, Hồ Nam có một vị Hoà thượng thông suốt xuất thế, cũng kéo đông kéo tây vô cùng vô tận như Ngài vậy”.

Thiền sư Tánh Không quay đầu lại, nói với Huệ Tịch: “Tiểu Sa di, kéo xác chết này đi đi!”

Một người, nếu như không có trí tuệ thì giống như một cái xác biết đi không có linh hồn!

Tuy Huệ Tịch kéo vị Tăng dốt nát từ trong phương trượng ra ngoài, nhưng bản thân lại rơi vào trong giếng – Ông cũng không hiểu gì cả, không biết ý chỉ của công án “Người trong giếng” của Thiền sư Tánh Không. Ông cảm thấy nghi ngờ, suy nghĩ mãi mà không hiểu được, vừa như rơi vào trong giếng khô sâu thẳm vậy. Từ đó về sau, Huệ Tịch thật giống như người sống sờ sờ lại bị nhốt trong giếng khô vậy, ông quên ăn, mất ngủ, ngày suy đêm nghĩ khổ công tham cứu, làm thế nào để có thể thoát từ trong giếng ra….

Huệ Tịch lại lên đường, vốn dĩ ông chỉ bị thọt một chân nhưng hiện tại lại mang thêm một mối nghi hoặc lớn – làm sao trong tình huống không dùng dây thừng mà có thể ra khỏi giếng sâu ngàn trượng?

Ông nghe nói, Thiền sư Đam Nguyên làm thị giả cho Quốc sư Huệ Trung nhiều năm, đạt được pháp yếu của Quốc sư, ông còn đã từng thân cận với Mã Tổ Đạo Nhất, sự sắc sảo của ông làm cho Mã Tổ rất khen ngợi. Thế là, lúc bái yết Đam Nguyên, ông không vội vàng trần thuật lại công án “người trong giếng”, mà hỏi rằng: “Không dùng công cụ, làm thế nào mới có thể cứu người ra khỏi giếng?”.

Thiền sư Đam Nguyên chẳng nói lời nào, đứng dậy đi ra ngoài.

Kỳ thực, sự không trả lời của Thiền sư Đam Nguyên đã là câu trả lời tốt nhất. Nếu đem ba cõi sáu đường trong luân hồi sanh tử ví với giếng sâu ngàn trượng. Vậy thì ba cõi vốn không, sáu đường cũng không thực có, có gì phải ra hay không ra khỏi? Cho nên, Thiền sư Đam Nguyên lấy việc thong dong tự tại đi ra ngoài để biểu thị cho Thiền cơ tinh diệu.

Nhưng, Tiểu Huệ Tịch chưa lãnh ngộ, cảm thấy nghi ngờ không hiểu cử chỉ của Thiền sư Đam Nguyên bèn đi theo sau lưng Thiền sư hỏi thêm lần nữa. Thiền sư Đam Nguyên quay đầu lại, la mắng: “Nhỏ ngốc này, ai ở trong giếng?”.

Lời mắng như sét nổ ngang tai, như một chùm sánh sáng mạnh, bỗng nhiên chiếu đến chỗ đáy sâu của giếng, nhưng tâm linh Huệ Tịch vẫn rơi vào nơi thâm sâu trong phân biệt đối lập như cũ, chẳng thể nào nương theo tia sáng mà lên.

Ông cáo biệt Thiền sư Đam Nguyên, đi về núi Đại Quy.

Đương thời, Tổ sư Linh Hựu ngồi ngay ngắn trên đỉnh núi Đại Quy, hoằng dương thanh âm Bát Nhã của cành thứ nhất trong “Nhất Hoa Ngũ Diệp” của Thiền tông Trung Quốc. Huệ Tịch đến kịp thời, hai thầy trò họ cuối cùng đã cùng nhau sáng tạo ra tông phái thứ nhất của Thiền tông Trung Quốc. Hôm đó, Huệ Tịch ở lại núi Đại Quy lập tức đến phương trượng thỉnh giáo Quy Sơn Lão Nhân: “Như thế nào mới có thể đem người trong giếng ra?”.

Đại sư Quy Sơn Linh Hựu đột nhiên hét một tiếng lớn: “Huệ Tịch”.

Tiếng hét này kinh thiên động địa, khiến người ta bất ngờ không kịp đề phòng, toàn thân Huệ Tịch lanh lợi, chợt rùng mình trả lời bằng bản năng: “Dạ”. Đại sư Quy Sơn Linh Hựu vỗ tay cười lớn, lấy ngón tay chỉ Huệ Tịch, nói: “Người trong giếng ra rồi!”

Huệ Tịch hốt nhiên đại ngộ! Người tu thiền, luôn muốn lìa mê được ngộ, nó gấp rút như bị nhốt trong giếng khô sâu ngàn trượng vậy. Kỳ thực, tâm nhạy bén không mê muội của chúng ta chưa từng bị mê mờ, cần gì phải ngộ! Cho nên, không cần phương tiện (dây thừng) liền có thể thoát khỏi sanh tử (giếng khô). Huệ Tịch, sau khi khai ngộ, hành vi cử chỉ khác trước rất nhiều. Một hôm, Hoà thượng thủ tòa đưa phất trần lên nói với chúng tăng: “Ai có thể nói ra được đạo lý, ta cho người đó phất trần?”

Huệ Tịch đi đến, thưa rằng: “Con có thể nói ra được đạo lý, đưa nó cho con được không?”

Thủ tòa nói: “chỉ cần ngươi nói ra được đạo lý thì có thể được phất trần”. Huệ Tịch chẳng nói câu nào, đưa tay ra đoạt lấy phất trần – đây chính là “đạo lý” của ông ta!

Có hai thiền khách cũng từ cũng Thạch Sương vân du mà đến. Tuy Huệ Tịch chưa từng gặp mặt họ nhưng luôn cảm thấy khá thân thiết, nhiệt tình sắp đặt cho họ ở lại.

Đại sư Linh Hựu Quy Sơn cũng giống như Sư phụ Bách Trượng Hoài Hải của họ, cho rằng lao động tức là Phật sự, công tác tức là tu thiền, cho nên chỉ sắp xếp cho họ giữ bò, làm ruộng mà thôi. Thế là hai vị Thiền khách nói: “Ở đây chẳng có ai biết Thiền”.

Lúc đó, mọi người đang chở củi, hai vị thiền khách chỉ muốn tu thiền, không đồng ý làm việc, tránh qua một bên nghỉ ngơi. Huệ Tịch đưa một đoạn củi đến trước mặt họ, hỏi một cách đầy thiền ý: “là gì?”

Là củi, nhưng lại không thể nói là củi, hai vị thiền khách lén nhìn nhau, không lời đối đáp. Từ nay về sau, tốt nhất chớ nói những gì là chẳng ai biết Thiền! Huệ Tịch ném que củi xuống, cũng ném cho họ sự khó xử lớn lao rồi nhẹ nhàng bỏ đi.

Huệ Tịch thường cùng Sư phụ khảo nghiệm. Một hôm, ông hỏi Đại sư Linh Hựu: “Ý của Tổ sư từ Tây Trúc đến là gì?”.

Đại sư Linh Hựu chỉ lồng đèn đáp chẳng dính dáng gì đến câu hỏi: “Một lồng đèn đẹp”.

Lồng đèn có thể đem lại ánh sáng, Lục Tổ từng nói, một ngọn đèn có thể phá tan cái tối ngàn năm, một người trí có thể dẫn dắt vạn kiếp ngu. Cho nên lồng đèn cũng ẩn chứa chân đế của Thiền. Huệ Tịch cũng chỉ lồng đèn, hỏi lại: “Chẳng lẽ cái này chính là ý từ Tây Trúc đến?”.

Thiền tâm linh động, không chút trở ngại, tuy đèn lồng ẩn hàm thiền ý, nhưng nếu đem nó làm thành chân đế của Thiền, thì sai lầm ngàn dặm. Đại sư Quy Sơn Linh Hựu đương nhiên hiểu rõ cạm bẫy của đệ tử, tương kế tựu kế, phản kích Thiền cơ mãnh liệt: “Cái này mà ngươi nói là gì?”.

Cái này, chỉ cho chân như, tự tánh, Tây lai ý, mà những cái này há có thể nói được sao! Huệ Tịch, sau khi ngộ đạo, giống như hồ lô trôi trên nước, không thể lấy được, vừa đụng tới liền lưu chuyển. Ông lặng lẽ quay người, liền nhẹ nhàng gỡ xuống gánh nặng ngàn cân mà Sư phụ đã đè lên cho ông – Ngài chỉ đèn lồng nói: “Một cái lồng đèn đẹp”.

Sau khi Huệ Tịch rời núi Đại Quy, đến hoằng hóa ở Ngưỡng Sơn Viên Châu, xiển dương Thiền phong riêng có của mình, vì vậy, hậu thế gọi tông phái do Ngài và Sư phụ Quy Sơn Linh Hựu cùng sáng lập gọi là “Tông Quy Ngưỡng”.

Có một vị Thiền tăng từ núi Đại Quy đến, mang đến cho Ngưỡng Sơn Huệ Tịch một bức thư thăm hỏi, và một tấm kính thủy tinh trân quý của Sư phụ. Ngưỡng Sơn Huệ Tịch cầm kính đến Pháp đường, đưa lên hỏi các Thiền tăng: “Các ngươi nói xem, đây là kính của Quy Sơn hay là kính của Huệ Tịch ta? Nếu nói là của Huệ Tịch nhưng lại do Quy Sơn đem tặng, nếu nói là của Quy Sơn mà nó ở trong tay Huệ Tịch ta. Các ngươi có thể nói được thì giữ kính lại, nếu như nói không được, ta liền đập vỡ nó”. Mọi người đều không trả lời – Người trong tâm mơ hồ, không biết trả lời như thế nào. Người tâm sáng như gương thì không cần miếng kính bên ngoài, lại muốn khách quan xem xem Đại Hoà thượng xử trí như thế nào. Huệ Tịch ném tấm kính xuống, ra khỏi pháp đường, trở về phương trượng.

Ngài thường đưa ra công án “Người ở trong giếng” cho các đệ tử, và luôn luôn khảng khái nói: “Ta được tên tuổi ở chỗ Thiền sư Đam Nguyên, được nơi chốn nơi chỗ Sư phụ Quy Sơn”.

Liên quan đến thiền cơ: Đại Nghi Đại Ngộ

Tổ sư Thiền tông có một câu danh ngôn: “Nghi ít ngộ ít, nghi nhiều ngộ nhiều, không nghi không ngộ”.

Nghi, là điều kiện tiên quyết để ngộ. Nếu như Thiền sư Ngưỡng Sơn Huệ Tịch không trải qua quá trình nghi ngờ chất vấn như rơi vào giếng khô ngàn trượng, vậy thì làm thế nào có thể có được sự rộng mở trong sáng, đại triệt đại ngộ sau này?

Sư phụ của Đại sư Quốc Học đương đại Nam Hoài Cẩn là Viên Hoán Tiên , phong độ tinh nhanh, học hành uyên bác. Có một lần, ông đến Thiền viện nói chuyện thiền với một vị Lão Hoà thượng. Lão Hoà thượng rất bất cần, nói: “Trong cảnh giới này, cư sĩ nhà ngươi chẳng thể lãnh hội!” Nói xong, phẩy tay áo mà đi.

Viên Hoán Tiên cảm thấy nghi hoặc: cảnh giới gì là cảnh giới ta không thể lãnh hội? Lại nhiều lần thưa hỏi Lão Hoà thượng chỉ cho pháp môn nhập thiền. Cuối cùng, Lão Hoà thượng nói: “Ngươi biết công án Đức Sơn ngồi thiền không đáp chuyện không? Đợi ngươi tham thấu vì sao Đức Sơn không đáp lời, ta sẽ nói cho ngươi”.

Viên Hoán Tiên đọc thuộc lòng kinh điển Thiền tông, đương nhiên biết công án này. Hơn 1200 năm trước, Thiền tông Trung Quốc sản sanh ra một nhân vật đặc sắc rực rỡ, ông cầm một cây gậy trắng đứng một mình trên tuyệt đỉnh Đức Sơn, khua trời đánh đất, đánh gió vờn mây, Phật đến đánh Phật, ma đến đánh ma, đánh hết tất cả những kẻ kỳ quái trong thiên hạ. Ngài chính là chủ nhân của “Đức Sơn bổng” (gậy Đức Sơn) trong bốn môn phong lớn của Thiền tông - Đại sư Tuyên Giám. Đức Sơn Tuyên Giám dùng thiền đạo nhanh như tên bắn, làm chấn động Nam Bắc tòng lâm. Một đêm nọ, lúc tiểu tham, Đức Sơn Tuyên Giám lại nói với đệ tử rằng: “Hôm nay ngồi thiền không trả lời. Nếu người nào có lời muốn hỏi sẽ ăn ba mươi gậy!” Quy cũ của tòng lâm Thiền tông, Đại Hoà thượng đường đầu mỗi buổi sáng khai thị thuyết pháp tại pháp đường cho đại chúng, cũng chính là ‘phổ giảng’; Buổi tối, xem xét tình trạng tu tập của mỗi người mà có sự dạy dỗ chỉ thị riêng biệt, thường gọi là ‘tiểu tham’. Vì sao đêm nay tiểu tham lại không được đáp lời. Vì sao hỏi lại bị đánh ba mươi gậy? Một khối nghi hoặc dày đặc như sương mù đoanh vây tâm trí chúng đệ tử của Đại sư Tuyên Giám…

Mối mê mờ này vượt không gian thời gian một nghìn năm cũng bao phủ tâm trí Viên Hoán Tiên. Ngài sáng suy chiều nghĩ, nhưng tư duy mãi cũng không hiểu được ý nghĩa của nó. Mối nghi ngờ này càng không xuyên qua được mà càng ngày càng dày đặc hơn. Càng dày đặc thì sức hấp dẫn của nó càng lớn. Toàn thân tâm Viên Hoán Tiên bị bao bọc trong khối nghi này, giống như con cá cắn cái bánh dầy nóng hổi, nhả lại nhả không được, nuốt lại nuốt không xuống; lại giống như xương cá ở trong cổ họng, nuốt không xuống, nhả không ra,…..

Ông nước cơm không thiết, quên ăn bỏ ngủ, tóc rối mặt dơ, tựa hồ như dần dần đi vào trạng thái tinh thần nửa ngớ ngẩn nửa say sưa - trừ mối nghi hoặc kia ra ông đã quên hết toàn bộ thế giới kể cả bản thân mình!

Sư hương đèn coi sóc trong đại điện tự viện, thấy ông từ một người học hành đàng hoàng trở thành một người nửa điên nửa dại như thế rất đau lòng, bèn đốt hương cầu nguyện trước tượng Quán Thế Âm, khẩn cầu Bồ tát đại từ đại bi giúp đỡ cho ông ta. Vừa ngay lúc đó, Viên Hoán Tiên cũng đến đại điện, một tiếng mở cửa trong vô tình, đột nhiên phá tan mối nghi bao vây ông ta lâu ngày – “Bùng” – ông ta dường như từ trong một thùng dầu hắc không đầu không mối, không bờ không mé thoát ra, trước mắt là một vùng ánh sáng chói lòa…. Kỳ thực, không chỉ tham thiền mới như vậy, chúng ta cũng thế, học tập cũng thế, công việc cũng như thế: không bức bách không đi vào, không kích thích không phấn phát, không gợi ý không phát hiện, không nghi ngờ không ngộ nhập.

Ái Nhân Tư Thản ngày đầu tiên học lớp tiểu học, thầy giáo dạy cho ông ta: một cộng một bằng hai. Ái Nhân Tư Thản nhỏ bé lại hoài nghi: vì sao một cộng một bằng hai? Một cộng một không phải cũng bằng một sao? Một lát sau nó đưa tay lên, đứng dậy thưa: “một cộng một cũng có thể bằng một”.

Trong lớp rộ lên cười, ngay đứa trẻ ngốc nghếch nhất cũng cho rằng, người đưa ra kết luận này chắc chắn ngu còn hơn lợn. Tiểu Ái Nhân Tư Thản lại không chút hoang mang, lấy từ trong cặp sách ra hai miếng sôcôla, dùng sức vắt nó lại với nhau, sau đó nói với mọi người: “Các bạn xem, một cộng một chẳng phải bằng một sao?’’

Thầy giáo bảo: “Hai miếng sôcôla vắt lại một, tuy trở thành một miếng, nhưng là miếng lớn mà!”

Ái Nhân Tư Thản nói: “Một miếng lớn cũng là một miếng vậy!”

Năm 1895, Ái Nhân Tư Thản bắt đầu suy nghĩ về vấn đề này: Nếu dùng tốc độ ánh sáng để lần theo dấu vết một tia sáng khác chúng ta sẽ nhìn thấy cái gì? Mối nghi đặc biệt này luôn không gọi mà đến, xua chẳng chịu đi, thời thời khắc khắc xuất hiện trong đầu óc mười sáu tuổi của ông lúc đó. Ông từng làm các tưởng tượng nhưng đều không có đáp án mỹ mãn. Càng mờ mịt không đầu mối, ông càng không muốn từ bỏ. Thế là, từ ý niệm nghi ngờ “truy tìm ánh sáng” đơn giản dần dần ông cảm thấy hoài nghi đối với tất cả các lãnh vực ứng dụng lý luận lực học Newton đã thống trị thế giới khoa học mấy trăm năm.

Trên thế giới, tốc độ ánh sáng là tốc độ nhanh nhất, mà cái nhanh hơn tốc độ ánh sáng lại là tư duy của con người, tư tưởng của con người. Mối nghi to lớn này, dẫn dắt, chỉ đạo sự tưởng tượng của Ái Nhân Tư Thản ngao du trong thái không vũ trụ mênh mông…

Vì kế mưu sinh ông đến làm một cán sự nhỏ ở cục bản quyền sáng chế phát minh Thụy Sĩ, ông vẫn không vứt bỏ cách nghĩ đó. Lúc ông lập gia đình có con, khi đẩy xe đưa con đi tản bộ trên đường phố Bá Nhĩ Ni, thường chẳng biết tại sao lại dừng bước, đứng thừ người ra - mối nghi hoặc kia lại dẫn ông vào trong suy tư tưởng tượng mờ mịt lao khổ…

Một hôm, lúc ông ở trong nhà leo lên một cái ghế cao để treo bức tranh sơn dầu, lại rơi vào mối nghi không mời mà tự đến đó. Thế là, ông suy nghĩ rất chuyên chú, quên mất thân mình đang ở đâu, bỗng nhiên từ trên ghế cao ngã xuống. Ông nằm bất động trên đất – tuy mông đau đớn, nhưng lại không thương tổn gân cốt. Ông không phải không đứng dậy được mà là không đứng dậy – Ông đang suy nghĩ, vì sao ta bị rơi thẳng xuống đất? Đau đớn khiến ông ta lập tức nghĩ ra: vật thể luôn vận động theo lộ trình có trở lực nhỏ nhất!

Việc té ngã này đã đưa ra một gợi ý rất quan trọng đối với sự suy nghĩ và nghiên cứu của Ái Nhân Tư Thản. Cuối cùng, trải qua thời gian mười năm, cơ duyên thành thục. Vào một ngày trong năm 1905, Ái Nhân Tư Thản đột nhiên nghĩ ra: đối với một người quán sát mà nói thì hai sự kiện cùng một lúc, đối với người quán sát khác mà nói thì không nhất định là cùng một lúc. Từ đó, trong đầu óc ông liền hình thành khái niệm về tính đồng thời tương đối , dẫn đến sự sáng lập nghĩa hợp tương đối luận.

Ái Nhân Tư Thản nhớ lại rằng: Một ngày tháng sáu năm nọ, tôi đang nằm trên giường, đối với câu đố đang dày vò tôi, trong lòng tràn đầy cảm giác chẳng chút hy vọng giải đáp. Trước mắt tôi, tợ hồ như không có một chút ánh sáng. Nhưng đột nhiên, trong bóng tối lóe ra một tia sáng, linh cảm như thủy triều đang trào lên, đáp án rõ ràng xuất hiện…. Ông phấn chấn vung bút nhanh chóng viết sách, quyển luận văn đầu tiên về thuyết tương đối trên thế giới – “Điện Động Lực Học Của Luận Động Thể” ra đời. Nó như một vầng thái dương mới mẽ trong giới khoa học đã nhô lên.

Ái Nhân Tư Thản nói: “Mấy tuần lễ đó, tôi quan sát được các loại hiện tượng thất thường trên thân thể mình, tôi dường như đang ở trong trạng thái cuồng loạn vậy”. – Quá trình này tất giống với quá trình nhiều Thiền sư tham thiền khai ngộ.

Ái Nhân Tư Thản đã nói: “Đưa ra một vấn đề, luôn quan trọng hơn giải quyết vấn đề đó. Bởi vì giải quyết vấn đề có lẽ chỉ là kỹ xảo trên phương diện toán học hay là thực nghiệm mà thôi, còn đưa ra một vấn đề mới, tính khả năng mới, từ góc độ mới mẽ đó nhìn vấn đề cũ, lại cần phải có sức tưởng tượng sáng tạo, và còn tiêu chí đúng đắn tiến bộ của khoa học”. Mà tất cả những điều này, cho đến tất cả các sáng tạo mới mẽ đều được xây dựng trên cơ sở nghi vấn.

 

    Chia sẻ với thân hữu:
    In bài viết: