CHÀO MỪNG QUÝ VỊ ĐÃ GHÉ THĂM TRANG NHÀ. CHÚC QUÝ VỊ AN VUI VỚI PHÁP BẢO CAO QUÝ !

Đào tạo cổ ngữ - vấn đề cần được quan tâm

Không phải ngẫu nhiên mà nhân cách con người được hình thành một cách hoàn thiện, quá trình hoàn thiện ấy có được là nhờ vào sự giáo dục lẫn yếu tố kinh nghiệm và môi trường sống. Có thể nói, nhân cách con người được xây dựng trên nền tảng giáo dục nên dù ở trong hoàn cảnh nào người ta vẫn luôn theo học - từ học thầy, học bạn kể cả tự học. May mắn thay, Tăng Ni khóa VI ở HVPG Việt Nam tại TP. HCM được học trên tinh thần đổi mới phù hợp với xu hướng giáo dục hiện đại trong thời buổi toàn cầu hóa.

Xuất phát từ việc đổi mới này, Tăng Ni sinh đã được đào tạo theo chuyên ngành và có cơ hội tự học cũng như nghiên cứu sâu hơn nhằm đáp ứng yêu cầu của các bài tiểu luận. Từ đó, khả năng tự tìm nguồn tài liệu và nghiên cứu viết lách một cách độc lập ở Tăng Ni sinh không ngừng nâng cao, nhưng bấy nhiêu đó vẫn chưa đủ. Hẳn nhiên, một tu sĩ được đào tạo từ Học viện thì chí ít họ phải có tư lương chuẩn về Phật học là điều đương nhiên, nhưng muốn thành công trong vấn đề nghiên cứu hay hoằng pháp thì bấy nhiêu đó vẫn chưa đủ. Hiện tại, Học viện chúng ta có 6 chuyên ngành[1], mỗi khoa đều phải học một hoặc hai ngoại ngữ tùy theo yêu cầu của ngành học, nhưng mức độ quan tâm của chúng ta về những ngoại ngữ ấy như thế nào?

Hẳn ai cũng biết, ngoài tiếng mẹ đẻ thì Anh ngữ là ngôn ngữ mang tính giao tiếp có thể sử dụng dễ dàng ở nhiều quốc gia trên thế giới, được yêu cầu là phải có đối với Tăng Ni khi tốt nghiệp với yêu cầu tối thiểu là bằng A. Điều này, thúc đẩy mọi người học Anh ngữ và đương nhiên đó là việc làm đem đến lợi ích thiết thực cho Tăng Ni sinh dù họ sẽ đi du học hay ở lại quê hương làm Phật sự. Xem ra, ngoài những sinh ngữ như Anh, Hoa… thì Tăng Ni có vẻ quá thờ ơ với các ngôn ngữ khác mà đối với Phật giáo đó là Thánh ngữ, như Pàli, Sanskrit… Vì hầu hết các bản kinh cổ xưa đều có nguồn gốc từ ngôn ngữ này. Và ở Việt nam, chúng ta may mắn có thêm nguồn Kinh tạng của Phật giáo Phát triển được lưu giữ bằng Hán ngữ.

Ngày nay, khi những ứng dụng từ công nghệ thông tin được phát triển để phục vụ cho nhu cầu tôn giáo thì quả là không khó khi tìm ra tài liệu gốc, nhưng khi có trong tay bản gốc Tăng Ni sẽ làm gì và có đủ khả năng xử lý văn bản ấy không mới là vấn đề đáng quan tâm. Tại Học viện chúng ta đào tạo nhiều ngoại ngữ khác nhau như: Phạn, Pàli, Hoa, Hán cổ, Hàn, Nhật… nhưng hầu như chỉ là cỡi ngựa xem hoa vì chúng ta chưa đánh giá đúng giá trị ứng dụng của những ngôn ngữ này nên việc học và thực hành dường như còn rời xa nhau. Nhìn từ thực tế, hiện nay khóa VI đang ở vào năm cuối nhưng những Tăng Ni sinh học cổ ngữ Pàli đã xử lý văn bản này ở mức độ sơ đẳng như thế nào? Dù chỉ là bài Kinh Pháp Cú nhưng xem ra họ rất vất vả trong quá trình xử lý và theo lời của một giảng sư bộ môn này thì chúng ta sau khi tốt nghiệp trình độ chỉ ở mức “mầm non”. Cũng không hơn gì cổ ngữ Pàli, Hán cổ cũng chung số phận khi một học kỳ mà có đến mấy lần thay đổi giảng viên. Đành rằng, mỗi lần thay đổi là một lần Tăng Ni sinh tiếp thu được những cái mới nhưng sau buổi học làm quen và tìm hiểu sàn kiến thức của lớp thì giảng viên phải dạy lại, cứ như thế ngày ra trường đã kề mà vốn kiến thức ấy chỉ tầm sơ cấp và những cổ hay ngoại ngữ khác cũng chẳng khá hơn là bao.

Có thể lý giải vấn đề trên là do nhiều yếu tố tác động vào việc học cổ ngữ, đại loại như cổ Pàli là tử ngữ nên khó học, thiếu sinh động vì bắt buộc phải chọn nó theo ngành nên học một cách miễn cưỡng… nhưng thử nhìn sang những nước lân cận. Dù họ theo trường phái Nam truyền hay Phát triển thì phân khoa cổ ngữ luôn được đầu tư một cách thích đáng vì giá trị ứng dụng của nó cho nghiên cứu rất cao: “Văn học Pàli đóng vai trò rất lớn đối với nhiều nền văn hoá châu Á và ảnh hưởng của nó vẫn còn sâu sắc và sống động trong đời sống con người và xã hội tại nhiều quốc gia”.[2] Cho nên họ đầu tư dạy học và dịch cũng như đã dịch xong những tạng kinh còn chúng ta, tại sao cho đến nay việc hoàn thiện bộ đại tạng Nam và Bắc truyền thành Việt ngữ vẫn chưa được đầu tư thích đáng? Trong khi đó các bậc tiền bối đã khẳng định: “Đây là bộ kinh được xem là nguyên thủy hay gần nguyên thủy nhất… có thể tìm hiểu lời dạy chân chính của đức Phật, khỏi qua ống kính của một trường phái nào, dầu Ấn Độ, Trung Quốc hay Việt Nam”[3]. Từ khi Ngài Viện trưởng dịch bản đại tạng đến nay thì chúng ta đã tiếp tục công việc ấy ra sao? Tại sao nó trì trệ như vậy? Câu hỏi có thể trả lời thỏa đáng khi chung ta giải quyết các vấn đề sau một cách rốt ráo.

1. Cần khuyến khích và chú trọng đào tạo chuyên sâu cổ ngữ cũng như ngoại ngữ vào tất cả các ngành học, nhưng phải xem lại giáo án và thời lượng có phù hợp với tăng Ni không?

2. Đối với phân khoa chuyên ngành cổ ngữ như Phạn và Pàli thì mức độ đầu tư không nên dàn trải, phải chú trọng vào việc xử lý văn bản là chính. Có như thế, chúng ta mới tìm ra được những nhân tố mới, đủ khả năng phục vụ cho việc biên dịch các bộ kinh trong Đại tạng.

3. Phân chia trình độ các học viên theo nhóm để kịp thời hỗ trợ người học bị mất kiến thức và có thể phát triển giáo án cao hơn cho những ai đam mê môn học, có như thế, mới hy vọng giúp học viên tiếp thu và nâng cao trình độ một cách bền vững.

4. Tùy theo trình độ học viên để có bước hướng dẫn tiếp xúc để tập xử lý văn bản gốc, tạo nên thói quen xử lý văn bản và đó cũng là phương pháp đưa đến niềm phấn khích cho sinh viên học Tăng Ni học cổ ngữ và hạn chế bớt những khuyết điểm khi trực tiếp làm việc với văn bản gốc.

Thật không sai khi nhận định Pàli là Thánh ngữ rất khó tiếp cận vì ngay trên quê hương của nó mà ngôn ngữ này cũng không được xem trọng. Cũng có thể do đa số dân chúng là người theo đạo Hindu nhưng ở các trường Phật học, chúng ta phải có trách nhiệm vực dậy tinh thần học Cổ ngữ để bảo vệ và giữ gìn vốn Thánh ngữ quý giá này. Cho đến ngày nay, những nước phương Tây như Anh, Úc… đã có phân khoa và hiệp hội Pàli đã ra đời thì tại sao ngay trên đất nước được đánh giá có truyền thống Phật giáo hơn 2.000 năm vẫn chưa thể biên dịch hoàn chỉnh các tạng kinh lớn. Câu trả lời xin dành lại cho những ai có thẩm quyền và có tâm bảo tồn Thánh điển cũng như phát triển đạo Phật.


[1] Từ năm 2009, Học viện đã thêm 3 khoa nữa (khoa Phật pháp Hoa ngữ, Phật pháp Anh ngữ, khoa Đào tạo từ xa), tất cả là 9 khoa.

[2] Thích Tâm Minh, Khảo Cứu Về Văn Học Pàli, NXB Phương Đông, 2006, tr. 6.

[3] HT. Thích Minh Châu, Trung Bộ Kinh, Tu Thư Đi Hc Vn Hnh, 1973, tr. Iii.

    Chia sẻ với thân hữu:
    In bài viết:

Các bài viết liên quan