CHÀO MỪNG QUÝ VỊ ĐÃ GHÉ THĂM TRANG NHÀ. CHÚC QUÝ VỊ AN VUI VỚI PHÁP BẢO CAO QUÝ !

Giáo dục Phật giáo: Từ truyền thống đến hiện đại

I. Dẫn nhập

Giáo dục Tăng Ni là lĩnh vực rất đặc thù, bởi học viên ở đây là một trong ba yếu tố hình thành nên Tam Bảo (Phật, Pháp và Tăng), ngoài những phẩm chất cần có của một nhân cách thời đại, còn phải hội đủ sự hiểu biết nhất định về Phật pháp, có kinh nghiệm trong thực hành và có kỹ năng hướng dẫn cho người khác theo pháp Phật. Đó là chưa kể đến những phẩm chất hỗ trợ rất cần thiết của một Tăng, Ni để họ trở thành một Như Lai sứ giả, như là thông thạo nhiều chuyên môn khác, thường được tóm tắt vào 5 nhóm gọi là Ngũ minh[1], có tinh thần phụng sự Đạo Pháp và xứ sở.

Nói một cách khác, mẫu hình lý tưởng của một vị Tăng Ni, như cố Trưởng lão Hoà thượng Thích Thiện Siêu – nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự kiêm Trưởng ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương đã từng nhấn mạnh – là nhân cách hội đủ ba yếu tố: Chánh kiến, Tịnh giới và Oai nghi. Đó là căn bản tự lợi của một vị phát tâm xuất gia, để có thể phụng sự, vị Tăng Ni ấy rất cần những kỹ năng văn hoá – xã hội bổ trợ, tuỳ theo lĩnh vực mà mình phụng sự.

Đường hướng giáo dục Tăng Ni của chúng ta hiện nay căn cứ vào Giới, Định, Tuệ; do đó, về lý tưởng giáo dục, chúng ta đã định hướng đúng. Tuy nhiên, thực tế trong nhiều năm qua thành tựu đã đạt được khách quan nhìn lại đã không thực sự như chúng ta mong muốn. Với sự đồng thuận của Trung ương Giáo hội, Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương đã tổ chức nhiều hội thảo, toạ đàm nhằm cải thiện tình hình, khắc phục sự thiếu thống nhất trong chương trình giảng dạy ở các cấp học, từ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng cho đến học viện. Hôm nay, nhân kỷ niệm 30 năm thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cũng là kỷ niệm 30 năm thành lập Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương – một trong những Ban quan trọng ra đời ngay sau thời điểm lịch sử thành lập Giáo hội – Ban Giáo dục Tăng Ni tổ chức Hội thảo này, để cùng nhìn lại, phân tích và đánh giá những gì thành tựu đã đạt được; đồng thời thu thập sáng kiến xây dựng nhằm có những điều chỉnh để ngành Giáo dục Tăng Ni của chúng ta gần hơn với mục tiêu mà chúng ta đã đặt ra như đã nói trên.

Ở tham luận này, chúng tôi cố gắng tóm tắt những đặc điểm của giáo dục Tăng Ni, từ truyền thống đến hiện tại, để từ đó soi sáng Phật sự cho chúng ta hôm nay, mạnh dạn trong những điều chỉnh nhằm đưa đến thành tựu tốt hơn của ngành trong hiện tại và tương lai.

II. Giáo dục Tăng Ni trong thời Đức Phật tại thế

Đức Phật là một nhà giáo dục vĩ đại. Bằng kinh nghiệm thực chứng và trí tuệ siêu việt, với tâm Đại Bi và sự phương tiện thiện xảo vô ngại, mỗi biểu hiện từ thân, khẩu của Ngài đều mang ý nghĩa giáo dục đối với chúng đệ tử, đặc biệt là chúng đệ tử xuất gia, hai chúng Tăng Ni.

Nếu cho rằng “Giáo dục, hiểu theo nghĩa rộng rãi, như là con đường hai chiều của dạy và học của con người kể từ lúc sinh ra cho đến khi chết” [2], thì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc Thầy vĩ đại vượt thời gian, người đã không nắm giữ bất cứ điều gì riêng cho mình, đã mở cánh cửa vĩnh cửu ra cho tất cả, gợi cảm hứng về lối sống hiền đẹp cho bất kỳ ai có nhân duyên được gặp Ngài, được Ngài hóa độ.

Đặc biệt với chúng đệ tử xuất gia, Đức Phật đã tùy căn cơ, nhân duyên, phương tiện chuyển hóa rất nhiều hạng người, nhiều thành phần xã hội, vượt lên sự phân biệt giai cấp hết sức cực đoan thời bấy giờ. Do đó, hội chúng xuất gia đệ tử Ngài có nhiều vị là Tăng, Ni chứng đắc thánh quả A-la-hán, trở thành những bậc thừa tự Pháp và truyền giảng Chánh pháp giữa đời này, làm cho Phật pháp lan rộng trên nhiều vùng lãnh thổ một cách nhanh chóng, cũng như lưu truyền ra thế giới trở thành một trong những tôn giáo lớn như hiện nay.

Mối tương quan mật thiết giữa Đức Phật và hai chúng đệ tử xuất gia (Tăng, Ni), giữa người Thầy và những học trò đã được nhiều kinh điển ghi lại, sống động nhất là qua kinh tạng ngôn ngữ Pāli.

Đọc lại Kinh tạng Nikāya, tìm hiểu lại phương thức giáo dục của Đức Phật, điển hình trong những trường hợp cụ thể với các Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Đại Ca-diếp, Ưu-ba-li, A-nan-đà, Phú-lâu-na, La-hầu-la, Ca-chiên-diên…, với các nữ tôn giả như Ma-ha Ba-xà-ba-đề, Khemā, Vimalā và Ambapāli, v.v… trong Tăng Chi, Tương Ưng bộ kinh, Trưởng lão Ni kệ [3]…, hình ảnh vị Thầy vĩ đại hiện ra rất sinh động, lân mẫn, gần gũi, thân thiết. “Suốt bốn mươi lăm năm giáo hóa, Thế Tôn đi chân không với một bình bát và ba y như các Tỷ-kheo đệ tử của Ngài. Hằng ngày Thế Tôn đi khất thực, ngồi thiền và thuyết pháp; buổi sáng sớm thường thuyết pháp cho các vị trời, buổi chiều tối thường thuyết pháp cho các hàng đệ tử. Ngài thường đi hoằng hóa một mình, hoặc có chúng Tỷ-kheo đi theo. Khi nghỉ ngơi tại một gốc cây, Thế Tôn tự đi nhặt lá khô lót thảo tọa (một tấm cỏ đan) để ngồi, hoặc có một đệ tử nhặt hộ; cho đến khi trọng tuổi Ngài mới có thị giả.” [4]

Ngài đã khế cơ, khế lý thuyết pháp, khuyến tấn sự nỗ lực tu tập thiền định theo con đường trung đạo; hơn thế nữa, Ngài luôn khích lệ các Tỷ-kheo dấn thân phụng sự chúng sanh, lên đường vì lợi lạc cho số đông trong tinh thần Chánh pháp. Ngài dạy: “Này các Tỷ-kheo, hãy đi đi, đi khắp nơi vì lợi lạc và hạnh phúc của số đông, do lòng Từ Bi đối với cuộc đời, vì lợi lạc và hạnh phúc của Trời và Người. Chớ đi hai người chung đường với nhau. Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết giảng giáo pháp cao thượng ở lúc khởi đầu và cao thượng ở lúc giữa, cao thượng ở lúc cuối trong tâm trí và trong ngôn từ. Hãy truyền giảng sự toàn hảo viên mãn, đời sống thanh tịnh của trạng thái cao cả. Có những kẻ mà trí óc chỉ bị che mờ bởi đôi chút bụi bặm, nhưng nếu không được giải thoát: những kẻ ấy sẽ hiểu pháp”.[5]

Mục tiêu lớn nhất của Tăng Ni là điều phục tâm, là hướng đến giải thoát và giác ngộ. Sức mạnh giáo dục trở thành mẫu mực và lý tưởng cho tất cả chúng ta, qua mọi thời đại: Những biểu hiện từ thân, khẩu của Đức Phật chính là bài giảng sống động và có sức mạnh khích lệ, gợi mở, đánh thức tiềm năng vốn có của người tiếp nhận, khiến những phẩm chất tốt đẹp nhất của con người được phát triển, lớn mạnh vượt lên những quy tắc xã hội, những tục lệ nặng nề, sự phân định giai cấp khắc nghiệt nhất của xã hội Ấn Độ cổ xưa như chúng ta từng biết.

Đó là giai đoạn lý tưởng nhất khai mở truyền thống giáo dục Tăng Ni, là môi trường ở nơi đó giáo lý Tứ Nhiếp pháp, Lục hoà chính là sự sống hàng ngày của Tăng đoàn, của hai chúng xuất gia Tăng, Ni đệ tử của Ngài. Tinh thần giáo dục của Đức Phật là tinh thần lý tưởng cho tất cả nền giáo dục Phật giáo ở mọi thời đại hướng đến, học tập và noi theo.

III. Giáo dục nhà chùa ở Việt Nam – điển hình với mẫu người giáo dục vững vàng về tâm linh, tích cực dấn thân phụng sự trong tinh thần vô ngã, vô ngại

Phật giáo du nhập nước ta từ đầu kỷ nguyên Tây lịch. Vai trò truyền nối Chánh pháp của Đức Phật chủ yếu vẫn là Tăng đoàn, Tăng sĩ với sự ngoại hộ của Cư sĩ, đặc biệt là các thương nhân, các nhà lãnh đạo chính trị thân dân. Lịch sử Phật giáo ghi nhận các Tăng sĩ hiện diện sớm trên đất nước chúng ta (Giao Chỉ) là các Tăng sĩ nước ngoài, chủ yếu đến từ Ấn Độ. Từ thời Tiền Lê trở về trước, các tư liệu lịch sử hiện còn, đặc biệt là về nền giáo dục tự viện – Tăng Ni – không rõ ràng. Chúng ta chỉ biết được những gương mặt nổi bật của giới xuất gia thời bấy giờ qua tư liệu ít ỏi như là các Đại sư Pháp Thuận, Khuông Việt…, những vị có vai trò đặc biệt đối với các chính quyền, dân tộc thời bấy giờ.

Giáo dục Tăng Ni hay Giáo dục nhà chùa được biết đến tương đối rõ là từ thời Lý, đặc biệt là từ thời Trần trở đi. Do bối cảnh lịch sử, đất nước yêu cầu huy động mọi nguồn lực để kiến thiết xã hội, Phật giáo cũng hòa mình vào đó, mẫu người Tăng sĩ [6] được nhấn mạnh qua quan điểm được lưu lại trong Tam Tổ Thực Lục, đặc biệt là qua hình ảnh của Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông (1258 – 1308) khi đã xuất gia, trở thành Trúc Lâm Đầu Đà, một thân một mình: “Đi khắp các thôn xóm, làng mạc khuyến khích dân chúng phá bỏ các dâm từ, thực hành năm giới và mười thiện nghiệp”. Rõ ràng, hình ảnh ấy gợi lại tinh thần dấn thân phụng sự chúng sanh như đã thấy ở thời Đức Phật tại thế.

Thời Trần, chúng ta có trung tâm Phật giáo lớn là Quỳnh Lâm, với sự điều hành của Thiền sư Pháp Loa (1284-1330) tuổi trẻ đầy năng lực, được ngoại hộ của triều đình. Giáo dục Tăng sĩ thời bấy giờ theo phương thức nào, điều đó không được lưu lại cụ thể, ngoài các thời sám pháp quen thuộc. Chúng ta chỉ biết rằng Thiền sư Pháp Loa đã tổ chức thỉnh kinh, chép lại Tam Tạng thánh điển, từ đó có thể nói giáo dục nhà chùa thời bấy giờ có thể ảnh hưởng bởi thanh quy của Thiền sư Bách Trượng (720-814). Trung tâm Phật giáo Quỳnh Lâm có đến hàng ngàn Tăng sĩ, với con số đó và với sự ngoại hộ tín thành của triều đình, chắc chắn nề nếp giáo dục nhà chùa thực sự kỷ cương. Điều đáng tiếc là tất cả tư liệu văn tự của chúng ta đã bị nhà Minh khi đưa quân sang xâm lược ở thế kỷ XV đã phá hủy hầu hết. Chúng ta chỉ có thể hình dung quy mô, nề nếp của nền giáo dục nhà chùa qua con số trên mà thôi.

Mẫu hình giáo dục người Tăng sĩ thời bấy giờ được thể hiện qua quan điểm Phật giáo của Trần Nhân Tông trong bài phú Cư Trần Lạc Đạo: “Dựng cầu đò, xây chiền tháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu/ Cương hỷ xả, nhuyễn từ bi, nội tự tại kinh lòng hằng đọc” [7]. Nền giáo dục ấy đã đào tạo nên những người học Phật, Tăng sĩ vững vàng về đời sống tâm linh theo tư tưởng Phật giáo Đại thừa, thực tu và thực chứng, tích dấn thân nhập thế phụng sự với nội dung hoạt động cụ thể trong tinh thần xả ly, thiểu dục tri túc, vô ngã, vô ngại: “Mình ngồi thành thị/ Nết ở sơn lâm (…) Xét thân tâm, rèn tính thức, há rằng mong quả báo phô khoe/ Cầm giới hạnh, địch vô thường, nào có sá cầu danh bán giác/ Ăn rau ăn trái, nghiệp miệng chẳng hiếm thửa đắng cay/ Vận giẻ vận sui, thân căn có ngại chi đen bạc…” [8]

Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định rằng chính tinh thần ấy, thái độ sống ấy đã làm nên sức mạnh vô song của dân tộc ta thời nhà Trần. Mẫu hình giáo dục ấy trở nên lý tưởng cho lĩnh vực giáo dục Tăng (Ni) Phật giáo Việt Nam qua các thời đại sau đó, phù hợp với hoàn cảnh xã hội, bối cảnh lịch sử đặc thù của đất nước ta, ngay cả trong giai đoạn hiện nay.

IV. Từ thành tựu của ngành Giáo dục Tăng Ni thuộc GHPGVN, nghĩ về một tương lai tốt đẹp hơn

IV.1. Trước năm 1975, chúng ta có mô hình đào tạo Tăng Ni khá toàn diện ở các Phật học viện, Phật học đường. Điều đáng tiếc là do sự chia cắt đất nước, nên mô hình đó không được nhân rộng và thống nhất, mà lệ thuộc vào vai trò của một số vị giáo phẩm đứng mũi chịu sào cũng như hạn chế về hệ phái, truyền thống. Nổi bật nhất phải kể đến Phật học viện Trung phần Hải Đức (Nha Trang), nơi đã đào tạo Tăng tài với mục đích, tôn chỉ, chủ trương: “Tăng bảo là hiện thân cụ thể cho tinh thần vô thượng của đạo Phật. Tăng bảo còn, Phật giáo còn; Tăng bảo bị suy đốn thì Phật giáo bại vong! Đó là một sự hiển nhiên mà lịch sử đã chứng minh một cách rõ ràng. Vì vậy, nơi nào có những hàng Tăng bảo có thực tài, thực đức thì nơi ấy Phật giáo được tồn tại một cách xứng đáng với danh nghĩa của nó.”[9] Nội dung chương trình đào tạo, theo đó, cũng được hoạch định, cải thiện từng bước. Nơi các Phật học đường, Phật học viện như thế đã hun đúc sở tu, chí nguyện phụng sự, nuôi dưỡng tình linh sơn cốt nhục… trên cơ sở đó đã làm hình thành nên các nhân cách Đại sĩ của các bậc cao tăng thời hiện đại như chư tôn trưởng lão Thích Thiện Hòa, Thích Thiện Hoa, Thích Thiện Siêu, Thích Trí Tịnh, Thích Minh Châu…

Mô hình đó được xem là mẫu mực cho Phật sự quan trọng giáo dục Tăng Ni, cho cả đến khi Đại học Vạn Hạnh được thành lập (1964). Bởi Đại học Vạn Hạnh có chủ trương mở rộng đối tượng, Tăng Ni chỉ là một trong nhiều đối tượng của nó mà thôi, nên không hề có chương trình giáo dục đặc thù dành riêng cho Tăng Ni như ở các đại học Phật giáo quốc tế khác.

IV.2. Sau khi đất nước thống nhất một mối, ngày 7 tháng 11 năm 1981, Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập trên sự nhất trí của đại diện 9 tổ chức Phật giáo lúc bấy giờ. Giáo dục Tăng Ni là một trong những Phật sự được xem là cấp bách và ưu tiên hàng đầu của Giáo hội. Do đó, Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương được thành lập trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Trị sự.

Trong chương trình hoạt động của Trung ương Giáo hội, ngay sau khi thành lập, vấn đề tiếp nhận người phát tâm xuất gia, giáo dục Tăng Ni được đánh giá rất cao và đặt ra yêu cầu phải đào tạo cho được thế hệ “Tăng Ni mới có trình độ Phật học và tri thức nhập thế cơ bản, đủ tài năng gánh vác sự nghiệp hoằng dương Chánh pháp, đảm đương các ngành hoạt động của Giáo hội, chấn chỉnh mô phạm tùng lâm”[10].

Theo đó, các cơ sở trường cao cấp Phật học được hình thành tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, sau này được chuyển đổi thành Học viện Phật giáo Việt Nam với 4 cơ sở tại Hà Nội, Huế, TP. Hồ Chí Minh và Cần Thơ. Các lớp sơ cấp, trường trung cấp Phật học cũng được đồng loạt thành lập ở nhiều tỉnh thành, thay thế cho các lớp học, nhóm học gia giáo tự phát ở các cơ sở tự viện.

Báo cáo thành tựu ngành Giáo dục Tăng Ni sau 30 năm cho biết: Chúng ta có 4.826 Tăng Ni sinh tốt nghiệp Cử nhân Phật học; đang đào tạo gần 2000 Tăng Ni sinh. Chúng ta có 8 Lớp Cao đẳng Phật học; đã đào tạo 1.506 Tăng Ni sinh tốt nghiệp; đang đào tạo 690 Tăng Ni sinh. Trung cấp Phật học: có 31 Trường, đã đào tạo 7.315 Tăng Ni sinh tốt nghiệp; đang đào tạo 2.611 Tăng Ni sinh. Sơ cấp Phật học: có khoảng 50 Lớp Sơ cấp Phật học, có gần 1.500 Tăng Ni sinh đang theo học chương trình Sơ cấp Phật học.

Đối với Phật giáo Nam tông, Học viện Phật giáo Nam tông Khmer tại TP. Cần Thơ, có 58 Tăng sinh tốt nghiệp Cử nhân Phật học khóa I; đang tiếp tục đào tạo Khóa II (2011 - 2015). Về các Lớp Trung cấp Phật học, có 19 lớp, 1.534 Tăng sinh theo học; 26 Tăng sinh tốt nghiệp Trung cấp bổ túc văn hóa Pali Nam bộ; Có 36 Lớp Sơ cấp, 2.777 Tăng sinh theo học; có 785 Lớp Pali, Khmer ngữ tiểu học, 25.155 chư Tăng và con em dân tộc theo học.

Về thành tựu du học: Giáo hội đã giới thiệu 376 Tăng Ni du học tại các nước, đã có gần 100 Tăng Ni tốt nghiệp Tiến sĩ, Thạc sĩ nhiều chuyên ngành khác nhau (đông nhất là Phật học).[11]

Nhìn vào thành quả đó, không ai có thể phủ nhận những đóng góp to lớn của ngành Giáo dục Tăng Ni thuộc Giáo hội trong 30 năm qua. Với nguồn nhân lực dồi dào ấy, chắc chắn nhiều hoạt động Phật giáo sẽ thực sự phát triển vượt bực. Tuy nhiên, thực tế đã không như vậy. Tăng Ni sau khi học xong các chương trình, kể cả du học nhiều năm tốt nghiệp với tấm bằng tiến sĩ, phần nhiều vẫn thụ động, chưa chịu dấn thân phụng sự, chưa tạo nên sức bật xứng với nguồn lực đó. Như phát biểu của Thượng toạ Thích Gia Quang trên báo Giác Ngộ gần đây là Tăng Ni trẻ sau khi học xong ít người chịu dấn thân, trở về quê hương hoặc tình nguyện mang giáo pháp của Đức Phật đến với đồng bào các vùng sâu, vùng xa, hải đảo mặc dù những nơi đó rất cần đến Sư/ Tăng, rất khát ngưỡng Phật pháp. Phần nhiều Tăng Ni trẻ tốt nghiệp các trường Phật học, hoặc đi du học về vẫn bám thành phố. Giáo hội thì chưa có cơ chế và không đủ giáo quyền để điều phối nguồn nhân sự này.

Xã hội cần Phật giáo hơn bao giờ hết, sự ngoại hộ của chính quyền, Phật tử trong giai đoạn này là rất lớn. Vai trò Ni giới cũng chưa thực sự phát huy qua các công tác tham dự xã hội như mở trường đào tạo mầm non, chăm sóc y tế cộng đồng… mà dường như vẫn thụ động trong chùa, quanh quẩn với các hoạt động xây dựng, trùng tu, mở đạo tràng theo truyền thống.

Đó là một thực tế chúng ta cũng cần khách quan nhìn lại để cùng phân tích, tìm hiểu nguyên nhân, đánh giá và có những điều chỉnh thích hợp nhằm sử dụng nguồn nhân lực này một cách hợp lý, đồng thời điều chỉnh nội dung chương trình đào tạo để kết quả giáo dục – Tăng Ni sau khi tốt nghiệp – có đủ những điều kiện như chủ trương của Trung ương Giáo hội ngay từ lúc thành lập đã nêu trên.

Cá nhân chúng tôi xin có những đề nghị sau:

(1) Chương trình đào tạo Tăng Ni hiện nay của chúng ta thực tế vẫn rất nặng về truyền đạt tri thức, học nhiều nhưng pháp hành thì chưa được tương xứng, cần có của một Tăng Ni. Tuy hoàn cảnh hiện tại, việc đó còn tuỳ thuộc vào đặc thù pháp môn hệ phái, ở các tự viện, nơi các vị thầy mà Tăng Ni sinh xuất gia tu học. Chúng ta có thể khắc phục điều này, để việc học song hành với việc tu, qua chương trình nội trú, bổ sung thời gian thực hành bắt buộc cũng như tự chọn của pháp hành để Tăng Ni sinh sau khi tốt nghiệp các trường Phật học, đặc biệt là hệ cử nhân ở các Học viện Phật giáo có đủ năng lực cho các hoạt động Phật sự, bởi như cổ đức nói: “Tu mà không học là tu mù, học mà không tu thì như cái đãy đựng sách”.

(2) Chúng ta cần nghiên cứu lại truyền thống giáo dục Phật giáo, đặc biệt là giáo dục Tăng Ni, tìm ra những nguyên tắc bất biến, những gì là tuỳ duyên vận dụng; đồng thời tham khảo các chương trình đào tạo Tăng Ni ở các đại học Phật giáo ở các nước như Myanmar, Thái Lan... Từ đó rút tỉa những tinh hoa để xây dựng chương trình đào tạo Tăng Ni ở nước ta. Hiện nay chúng ta có sự thống nhất về tổ chức, trong giáo dục Tăng Ni, sự thống nhất đó còn mang tính hình thức. Thực tế, mỗi cơ sở trường Phật học, Học viện Phật giáo đều vẫn chưa thống nhất về giáo trình giảng dạy, nhiều bộ môn được xây dựng khá tuỳ tiện, thiếu cân nhắc đến lợi ích, sự bổ trợ tri thức, kỹ năng cho Tăng Ni sinh trong tổng thể của ngành như mục tiêu đặt ra.

(3) Chúng ta cần có sự tuyển chọn một cách kỹ lưỡng hơn nữa đối với Tăng Ni sinh thi vào các Học viện Phật giáo, không nên coi trọng số lượng và cố gắng chạy theo phân khoa hình thức, thành tích như các trường thế tục bị lên án gay gắt hiện nay. Ở hệ trung cấp Phật học trở xuống, chúng ta có thể thu nhận học đại trà, có tính phổ cập, nhưng cần khắc khe hơn ở đầu vào cũng như đầu ra của hệ cử nhân và hậu đại học.

(4) Cải thiện và chuẩn hoá phương pháp giảng dạy, đặc biệt ở hệ cử nhân. Chúng ta phải làm cách nào để khuyến khích Tăng Ni sinh nhận thức sứ mạng thiêng liêng của Tăng Ni là duy trì mạng mạch của Chánh pháp, là một trong ba yếu tố hình thành nên ngôi Tam bảo, là biểu tượng cho Phật pháp giữa thế gian. Học để hoằng hoá, để phụng sự chứ không phải để có bằng cấp, có một danh phận, có sự hào nhoáng, dùng văn bằng như một trang sức tầm thường.

Chúng ta cần tôn vinh những gương phụng sự để nuôi dưỡng, kích thích hoài bão dấn thân phụng sự nơi mỗi Tăng Ni sinh lớn mạnh, thể hiện bằng hành động, bằng các chương trình xã hội thiết thực như truyền thông, mở trường mẫu giáo, chăm sóc y tế cộng đồng, sống mẫu mực đạo đức… trong tinh thần Chánh pháp.

V. Kết luận

Như đã nói, giáo dục Tăng Ni là lĩnh vực rất đặc thù. Học phải đi đôi với hành. Bởi như trong lời kêu gọi viết bài cho Hội thảo này, HT. Thích Chơn Thiện – Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS, kiêm Trưởng ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương đương nhiệm đã nhấn mạnh: “Trí tuệ của người xuất gia không phải là trí tuệ thông thường, mà là “kết quả của đời sống đạo đức (giới) và chuyển hóa nội tâm (định). Nói cách khác, trí tuệ đó là kết quả của sự thực chứng (tuỳ cấp độ) của mỗi Tăng Ni, không phải là học - tích hợp tri thức cho thật nhiều. Với một nền tảng kinh nghiệm tu tập vững vàng, Tăng Ni có thể đi vào đời, đem lại lợi lạc cho nhiều người khác một cách thiết thực hơn là người nắm giữ nhiều tri thức Phật học mà không có kinh nghiệm thực hành Pháp Phật.

Cuộc đời cần ở Tăng Ni, ở đạo Phật sự chăm sóc, hướng dẫn về tâm thức, về đạo đức để có sự cân bằng trong đời sống xã hội chứ không cần thêm một chuyên viên lý thuyết suông về Phật học, đạo đức.

Cuộc sống hiện đại đang đối diện với nhiều cuộc khủng hoảng về môi trường sinh thái, đạo đức lối sống… Tâm thức con người đang bị tổn thương trầm trọng bởi niềm tin bị làm lung lay, đảo lộn, phá huỷ bởi lòng tham lam và dục vọng tầm thường của con người. Hiện tượng các tôn giáo cực đoan có dấu hiệu đe doạ sự an ninh của con người trên toàn cầu… Đất nước ta trong thời hội nhập cũng đối diện với những vấn đề đó, dấu hiệu bạo lực, hội chứng vô cảm trước nỗi đau của tha nhân, ích kỷ, mất niềm tin dẫn đến suy thoái đạo đức… được giới truyền thông cảnh báo hàng ngày là những vấn nạn đặt ra cho tất cả chúng ta, trong đó có ngành giáo dục Phật giáo.

Đồng hành cùng dân tộc có nghĩa là phải chung sức chung lòng, cùng khắc phục, chữa lành các vết thương đó, để cơ thể của đất nước trở nên tráng kiện, mạnh mẽ, tự tin và sáng suốt trong công cuộc hội nhập và phát triển.

Nhân kỷ niệm 30 năm thành lập Giáo hội, 30 năm ngành Giáo dục Tăng Ni, chúng ta đã từng ngồi lại với nhau để lắng nghe những ưu tư, khó khăn ở địa phương một cách cụ thể; hôm nay, chúng ta cùng nhìn lại thành tựu 30 năm qua, khách quan đưa ra những nhận xét những gì đã đạt được, đồng thời cũng đưa ra những sáng kiến, ý kiến xây dựng nhằm định hướng phát triển để có được kết quả giáo dục Phật giáo giữ được tinh thần của nền giáo dục có từ thời Đức Phật, được vận dụng trong thực tế Việt Nam với đặc điểm nổi bật ở thời Trần, rút kinh nghiệm và phát huy thành tựu đạt được, xứng đáng là Phật sự được xem là quan trọng hàng đầu của Giáo hội, của Phật giáo Việt Nam luôn gắn bó với dân tộc qua các thời kỳ, giai đoạn phát triển. Hơn nữa, để mỗi Tăng Ni sau khi được tuyển chọn đào tạo, trở thành những bông hoa, những sứ giả truyền giảng và hướng dẫn nếp sống hiền đẹp mà Đức Phật đã dạy, chư vị Tổ sư đã nối truyền cho đến hôm nay cho nhân gian.


[1] Nội minh, Nhân minh, Thanh minh, Công xảo minh, Y phương minh.

[2] Thích Chơn Thiện, Phật học Khái luận, Phần “Các Tinh Thần Giáo Dục của Thế Tôn và Sự Liên Hệ Giữa Ngài với Các Hàng Đệ Tử, Chư Thiên, Ác Ma và Ngoại Đạo”.

[3] Đại tạng kinh Việt Nam, Trưởng lão Hoà thượng Thích Minh Châu dịch Việt ngữ, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.

[4] Thích Chơn Thiện, sđd.

[5] Mahāvagga I, 11 - Ðại phẩm.

[6] Trong các tư liệu lịch sử để lại, có lẽ cũng do ảnh hưởng nặng nề bởi quan niệm trọng nam khinh nữ, nên không thấy tư liệu đề cập đến Ni giới.

[7] Hội thứ tám.

[8] Hội thứ nhất và Hội thứ hai.

[9] Thích Không Nhiên, Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang – Những Chặng Đường Phát Triển, nxb Thời Đại 2009.

[10] Đại cương chương trình hoạt động của Giáo hội Phật giáo Việt Nam do HT. Thích Trí Thủ ký ngày 7 tháng 11 năm 1981, Kỷ yếu Hội nghị Đại biểu Thống nhất Phật giáo Việt Nam.

[11] Báo cáo Tổng kết 30 năm hoạt động Phật sự của Trung ương GHPGVN.

    Chia sẻ với thân hữu:
    In bài viết:

Các bài viết liên quan