CHÀO MỪNG QUÝ VỊ ĐÃ GHÉ THĂM TRANG NHÀ. CHÚC QUÝ VỊ AN VUI VỚI PHÁP BẢO CAO QUÝ !

Phụ nữ Phật giáo với vấn đề giáo dục

Nói đến giáo dục là nói đến sự kế thừa, đến tương lai hạnh phúc của gia đình, xã hội và quốc gia dân tộc; vì thế trong xã hội, công tác giáo dục cần phải được đặt lên hàng đầu. Giáo dục là xây dựng đào tạo, hình thành nhân cách con người có năng lực, đạo đức, phẩm chất tốt. Mục đích cao nhất của giáo dục là giúp cho con người tận hưởng những trải nghiệm tuyệt vời về vật chất cũng như về đời sống tâm linh.

Người phụ nữ có ảnh hưởng rất lớn đối với vấn đề giáo dục. Việt Nam ta có câu: “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà” đã cho thấy sự ảnh hưởng của người phụ nữ trong nền giáo dục nhân bản. Người phụ nữ hay người mẹ, người bà chính là những người thầy vỡ lòng của trẻ trong giai đoạn đầu đời.

Ở phương Đông, dù không chứng minh theo lối thực chứng, các nhà hiền triết cũng đặc biệt nhấn mạnh tới sự hình thành nhân cách của trẻ từ thuở ấu thơ. Điều đó đã cho thấy được tầm quan trọng, sự ảnh hưởng của người mẹ đối với đứa con như thế nào. Thậm chí, giáo dục cần áp dụng khi đứa bé còn nằm trong bào thai, nên dân gian ta đã ý thức việc giáo dục thai phụ trong giai đoạn mang thai (thai giáo), luôn cẩn thận giữ gìn cả thân miệng ý, tất cả đều toàn tâm toàn ý vì đứa trẻ sắp ra đời.

Đàn bà xưa lúc có thai

Không nằm nghiêng với ngồi sai lệch mình.

Chân không bước mạnh chạy nhanh

Tay không mang nặng vươn mình với cao.

Miệng không ăn vị lạ vào

Mắt không nhìn đến sắc nào tà dâm.

Tai không nghe chuyện nói nhàm,

Lại thường đọc sách luận bàn việc hay.

Gi gìn trong lúc có thai,

Sinh con tốt đẹp trí tài cao minh.

Trích Liệt Nữ truyện [1]

Ngày nay, khoa học cũng đã nhận ra và chứng minh rằng giáo dục thai nhi có kết quả cao hơn so với các giai đoạn giáo dục khác trong quá trình hình thành nhân cách của con người. Những cái vuốt ve, những lời thương yêu âu yếm đã tác động cái thức non nớt của thai nhi. Tuy non nớt, nhưng thức ấy cũng nhận biết được sự yêu thương của cha mẹ, vui vẻ đón nhận và hình thành một thể sống với tâm thức lạc quan. Bài học đầu đời được gửi đến thế hệ tương lai, thông qua người mẹ. Như vậy, người giáo sư đầu đời chính là người mẹ trực tiếp giáo dục và nuôi dưỡng thai nhi.

Con người ví như hạt mầm, dù là da vàng, da đỏ, da đen, hay da trắng; nếu được gieo vào mảnh đất tốt, tức được hưởng một nền giáo dục tốt, tất nhiên hạt mầm này sẽ đơm hoa kết trái. Con người không thể phát triển toàn diện và vững bền về mọi phương diện nếu không có một môi trường giáo dục thuận lợi. Giáo dục là thể chế đầu tiên, quan trọng nhất làm khuôn mẫu cho nhân cách đang hình thành và phát triển khi trẻ ở lứa tuổi còn non dại và chưa ý thức về giáo dục. Những mối liên hệ của trẻ em với môi trường đầu đời này, đặc biệt là với bố mẹ, quyết định phương thức ứng xử, nhất là về mặt tình cảm, mà chúng sẽ trải qua sau này trong những mối liên hệ với các cá nhân khác. Mối liên hệ tốt với bố mẹ, nhất là với mẹ sẽ đem lại cho chúng sự phấn chấn, lòng tin cậy, sự biết ơn và lòng hào hiệp sau này. Và nếu như mối liên hệ bị trẻ coi là “xấu” thì sẽ đem lại cho chúng nỗi lo sợ, sự bất an, ganh tức, nghi ngờ, thậm chí chúng có tâm lý thu mình lại vì mất tự tin.

Chúng ta cũng biết nhân cách con người bị tác động mạnh mẽ bởi môi trường sống, vốn có nhiều tương quan không thể tách rời với gia đình và xã hội. Giáo dục con người là trách nhiệm chung của toàn thể xã hội nhưng gốc rễ vẫn là giáo dục gia đình. Các cụ ngày xưa rất chú trọng giáo dục gia đình, thiết lập nề nếp, sự hiếu thuận; đề cao gia phong, cho nên cơ cấu gia đình rất vững. Trong gia đình, người phụ nữ có vai trò rất quan trọng trong việc giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa đạo đức và thuần phong mỹ tục. Phụ nữ vừa là người mẹ, người thầy trong việc quản lý, giáo dục con cái trong gia đình, ảnh hưởng đến tâm lý thai nhi, chăm sóc con khi vừa chào đời, hiểu biết con theo từng lứa tuổi. Khi con gặp khủng hoảng, nhất là ở tuổi dậy thì, tâm lý thanh thiếu niên chưa ổn định và có những biểu hiện nổi loạn, những lúc này mẹ chính là thầy, là bạn, là người tư vấn tốt, giúp cho trẻ tự tin hơn.

Trung Hoa có Mạnh mẫu là bà mẹ tuyệt vời, ba lần dời chỗ ở, với mục đích là tìm môi trường thích hợp cho con sống để phát triển nhân cách. Bà đã giáo dục nên một bậc đại hiền là ngài Mạnh Tử, một trong những vị hiền triết Trung Hoa. Câu chuyện này cho thấy sự ảnh hưởng trực tiếp qua sự giáo dục của người mẹ đối với con.

Còn đối với Phật giáo, theo tinh thần Phật giáo Đại thừa, chư Phật, Bồ-tát tùy loại ứng hiện thân, nghĩa là mang thân hình nào có thể giúp cho nhiều người hướng thiện, an vui, giải thoát thì các Ngài hiện diện với thân hình đó; bởi các vị Bồ-tát xem thân vật chất này như áo mặc bên ngoài, hay một phương tiện để thực hiện sáu pháp Ba-la-mật của Bồ-tát hạnh. Hiện thân người nữ để phương tiện độ sanh cũng không hiếm thấy trong kinh điển.

Nhìn lại những trang sử Phật giáo, chúng ta còn nhớ phu nhân Ma Ha Ba Xà Ba Đề cùng 500 thê nữ dòng Thích Ca, đã vượt đường xa từ thành Ca-tỳ-la -vệ đến Tỳ-xá-ly, cầu xin Phật cho xuất gia. Sau khi xuất gia, Di mẫu cùng nhiều vị Tỳ-kheo-ni trong Ni đoàn chứng đắc từ Sơ quả cho đến quả vị A-la-hán.

Kính lạy Đức Thánh Tổ Kiều Đàm Di! Bằng sự quyết tâm và lòng tin kiên cố với giáo Pháp, Ngài đã vạch cho nữ giới một con đường thoát ly thân phận thấp hèn của người phụ nữ, Ngài đã dạy cho nữ giới một bài học bằng thân giáo tuyệt vời, cho thấy người phụ nữ vẫn có khả năng thực hiện chí hướng xuất trần thượng sĩ. Như vậy, thời đức Phật tại thế, Giáo đoàn của Ngài đã công nhận sự hiện diện của hàng Tỳ-kheo-ni. Nói rộng hơn, đức Phật còn công nhận cả hàng nữ cư sĩ tại gia có thể làm công việc cứu nhân độ thế của Bồ-tát. Có thể nói, theo kiến giải của kinh điển Đại thừa thì hàng tứ chúng của Phật gồm có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di đều được coi là hiện thân của Bồ-tát nối gót theo Phật để tự rèn luyện bản thân, vừa tự thăng hoa, vừa làm lợi ích cho cuộc đời.

Còn Kinh Hoa Nghiêm, một bộ kinh lớn của tư tưởng Đại thừa, đã thể hiện rõ nét tinh thần này qua hình ảnh của Thiện Tài đồng tử cầu đạo với 53 vị thiện tri thức, trong đó có hàng nữ giới như Tỳ-kheo-ni Sư Tử Tần Thân và các nữ cư sĩ như Ưu Xã Ưu-bà-di và Bà Tu Mật Đa. Kinh Hoa Nghiêm đã giới thiệu những phụ nữ tại gia và xuất gia làm được những việc khó làm đến mức gọi là bất khả tư nghì mà hàng nam giới bình thường không làm được. Nói cách khác, kinh điển Đại thừa nhấn mạnh đến năng lực tiềm ẩn vô cùng vô tận trong con người, nên kinh còn gọi là bí mật tạng, nếu biết phát huy đúng đắn và khai thác trọn vẹn. Tỳ-kheo-ni Sư Tử Tần Thân và các Ưu-bà-di mà Kinh Hoa Nghiêm đưa ra là những người đã nhận ra và phát huy được năng lực vô song của chính mình, mới trở thành mẫu người siêu việt được kinh điển Đại thừa đề cao.[2]

Haeju Sunim, Giáo sư Phật học tại trường Đại học Hàn Quốc ở Tongguk, đã khởi xướng trường phái Hoa Nghiêm, tạo ảnh hưởng rất lớn đến Thiền Phật giáo Trung Hoa, Hàn Quốc và Nhật Bản. Myongsong Sunim là một trong những người giảng pháp lỗi lạc nhất tại Hàn Quốc. Ni sư Linda Ruth Cutts, nữ Thiền sư và là Viện trưởng Trung tâm thiền Francisco, nữ Thiền Sư Ayya Khema, nữ Thiền sư Dipama, giáo sư dạy thiền Christina Feidman đều là những nhà giáo dục tâm linh siêu tuyệt[3].

Từ xa xưa, hàng nữ giới tu hành vào thời đức Phật tại thế, cho đến mẫu người phụ nữ được ghi lại trong kinh điển thể hiện sự hiểu biết trong sáng, năng lực siêu tuyệt và đạo hạnh đáng thật kính ngưỡng.

Đến đầu thế kỷ XX ở Việt Nam, trong số các vị Ni làm nên đạo nghiệp phải kể đến Sư bà Diệu Ngọc, Sư bà Diệu Tịnh, Sư bà Diệu Không, Ni trưởng Như Thanh… đã khởi đầu cho việc hình thành và phát triển Ni giới Việt Nam. Và đến nay, chư Ni đã xây dựng được Ni đoàn lên đến hàng vạn người.

Riêng hệ phái Khất Sĩ cũng có những vị Ni thời danh như Ni trưởng Huỳnh Liên, Bạch Liên, Tạng Liên… đã thành lập được Ni giới Khất Sĩ dấn thân trên mọi nẻo đường để truyền bá Chánh pháp, cứu độ rất nhiều người. Điều này chứng tỏ năng lực giáo hóa của chư Ni Việt Nam rất đáng kể ở thế kỷ XX.

Cuộc đời của những người phụ nữ này gửi đến chúng ta một thông điệp rằng, hãy tin ở chính mình, chúng ta sẽ cảm nhận đầy đủ những giá trị kinh nghiệm về phương diện hành trì trên lộ trình đạt đến an vui và hạnh phúc.

Có thể nói ngày nay, số lượng chư Ni ở Việt Nam đông hơn chư Tăng, trong đó có nhiều vị tốt nghiệp học vị thạc sĩ, tiến sĩ. Vì vậy, người viết thiết nghĩ, chư Ni có thể tham gia mọi lĩnh vực hoạt động, nhất là lĩnh vực giáo dục. Song, ngày nay quan niệm Tiểu thừa trong giới Tăng Ni, Phật tử không phải không còn, nghĩa là phân biệt giới tánh và phân biệt hình thức tu tại gia và xuất gia vẫn còn đó đây, nếu không nói là nhiều nơi vẫn còn rất nặng nề, nên không phát huy được năng lực tiềm ẩn trong từng con người. Chính điều này đã tạo ra một sức cản lớn cho tầm hoạt động của chư Ni và giới cư sĩ nữ ở Việt Nam.

Vị trí của người phụ nữ dù đời hay đạo đều bị đặt vào hàng thứ yếu, lệ thuộc vào nam giới. Chúng tôi mong rằng trên bước đường thắp sáng trí huệ của đức Phật, mọi người cần có cái nhìn đúng với sự thật để phát huy được nhận thức trong sáng và năng lực làm lợi ích cho đời, làm đẹp cho đạo, không luận là hàng nữ lưu hay nam giới, bất kể là người xuất gia hay tại gia theo tinh thần Hoa Nghiêm đã gợi mở. Nếu vị trí người nữ được nâng cao, từ vị trí của một người mẹ, người thầy, vị đạo sư, thì sự đóng góp của phụ nữ đối với gia đình và xã hội không nhỏ trong lĩnh vực giáo dục đạo đức nhân bản[4].

Hiện nay, nền giáo dục học đường chưa hoàn mỹ, đạo đức của học sinh đang sụt giảm, nét đẹp văn hóa tôn sư trọng đạo ngày càng phai nhạt; tin tức từ báo đài phản ảnh không ít những trường hợp học sinh, sinh viên hành hung thầy mình tại sân trường. Đây là hiện tượng cần báo động và cần phải có phương pháp ngăn chặn kịp thời. Chính lúc này là lúc những người phụ nữ, nhất là người nữ Phật giáo, không luận là tại gia hay xuất gia hãy đem sự hiểu biết của mình tích cực tham gia vào lĩnh vực giáo dục, trong vai trò người mẹ trong gia đình, người thầy nơi học đường, vị đạo sư trong một ngôi tự viện.

Christina Feidman nói: “Là những người cha mẹ theo Phật giáo có nghĩa là chúng ta phải thiết lập trong gia đình một sự hiểu biết sâu xa về các vấn đề đạo đức, những điều luật mà các con phải tuân theo. Những giá trị đạo đức mà từ lúc ấu thơ chúng phải tuân theo, sẽ trở thành một phần cuộc đời của chúng”.[5]

Nếu muốn quốc gia hưng thịnh, xã hội văn minh, gia đình hạnh phúc thì không thể thiếu sự đóng góp của người phụ nữ, nhất là người nữ của Phật giáo, trong nền giáo dục nhân bản. Những người phụ nữ đã trải qua sự học và thực hành giáo lý Phật-đà là những người biết phương pháp làm cho nhu nhuyến, định tĩnh, thanh tịnh thân, khẩu và ý; biết ngăn điều quấy ác từ khi chúng chưa phát khởi, biết ngăn chặn những điều xấu ác đã không cho phát triển thêm; biết phát khởi những niệm lành chưa có, biết phát triển những niệm lành đã có tăng trưởng thêm lên; biết sống theo chánh nghiệp, chánh mạng. Đây há không phải là lực lượng cần thiết cho nền giáo dục hiện nay? Có như vậy, chúng ta mới tận dụng được chất xám của tất cả mọi người thuộc mọi thành phần trong xã hội, vừa thể hiện được chân lý bình đẳng của đức Phật dạy, vừa xây dựng thế giới Ta-bà được an vui và phát triển bền vững.                                       


[1] Minh Tâm Bảo Giám diễn ca – Nguyễn Trác - Lê Phục Thiện.

[2] Nguyệt san Giác Ngộ số 143.

[3] Nữ Thiền Sư Phật giáo tại Hoa Kỳ – Lenore Friedman.

[4] Tạp chí Văn Hóa số 81 – 82.

[5] Bước Sen – Martine Batchelor.

    Chia sẻ với thân hữu:
    In bài viết:

Các bài viết liên quan