CHÀO MỪNG QUÝ VỊ ĐÃ GHÉ THĂM TRANG NHÀ. CHÚC QUÝ VỊ AN VUI VỚI PHÁP BẢO CAO QUÝ !

Giới thiệu tổng quan Kỷ yếu hội thảo

Hội thảo “Hệ phái Khất sĩ: Quá trình hình thành, phát triển và hội nhập” diễn ra trọn ngày 26 tháng 02 năm 2014 (nhằm ngày 27 tháng Giêng năm Giáp Ngọ) tại Pháp viện Minh Đăng Quang, số 505 xa lộ Hà Nội, phường An Phú, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh. Phiên khoáng đại buổi sáng diễn ra ở Giảng đường chính, các phiên chủ đề vào buổi sáng và buổi chiều được phân bố ở Giảng đường chính và Niết-bàn đường.

5

Hội thảo đã được Viện Nghiên cứu Tôn giáo thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, và Thường trực Hệ phái Khất sĩ liên kết tổ chức. Ban Tổ chức hội thảo đã nhận được gần 100 bài viết từ những vị lãnh đạo Phật giáo, những vị giáo sư, phó giáo sư, giảng viên đại học, học giả, nhà nghiên cứu, nhà báo, những ngòi bút chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp khác.

Hội thảo là một phần trong chương trình Đại lễ Tưởng niệm 60 năm ngày Đức Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng. Về phương diện lịch sử thì 60 năm là một dấu mốc quan trọng của một đời người: Giáp Ngọ 1954 – Giáp Ngọ 2014. Vì vậy, Đại lễ tưởng niệm năm 2014 không chỉ mang tính chất của một thông lệ hằng năm, một thông lệ mà môn nhân đệ tử đã làm suốt 59 năm qua mà còn mang tính chất thiêng liêng của một hoa giáp tròn đầy chu kỳ của một sinh mệnh. Quả thật, Đại lễ đã được tổ chức trang nghiêm hơn, số lượng khách về dự đông đảo hơn, nội dung phong phú hơn với điểm nhấn là Hội thảo khoa học “Hệ phái Khất sĩ: Quá trình hình thành, phát triển và hội nhập”.

Nhằm gợi hướng dẫn khởi, Ban Tổ chức Hội thảo đã đề xuất 4 chủ đề:

1. Tổ sư Minh Đăng Quang: Cuộc đời và đạo nghiệp

2. Tư tưởng Phật học của Tổ sư Minh Đăng Quang trong bộChơn lý

3. Phật giáo Khất sĩ: Quá trình hình thành và phát triển

4. Hệ phái Khất sĩ và sự nghiệp xây dựng Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay.

Hầu hết những bài viết mà Ban Tổ chức nhận được đều đã phục vụ tốt 4 chủ đề trên. Trong đó tuyệt đại đa số đều đồng thuận ở mức độ này hay mức độ khác về nhân cách và sự nghiệp của Tổ sư Minh Đăng Quang, về sự đóng góp nhiều mặt của Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam trong giai đoạn hình thành và lan tỏa trước kia và của Hệ phái Khất sĩ, thành viên sáng lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trong thời hội nhập và phát triển sau này. Điều cần ghi nhận là chính cuộc đời và đạo nghiệp của Tổ sư Minh Đăng Quang đã tạo nên tiền đề vững chắc để Hệ phái Khất sĩ có những thành tựu và những đóng góp đáng được ghi nhận và đã được ghi nhận khi hòa nhập vào vận hội hay vận mệnh chung của đất nước, của dân tộc và của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Mỗi bài viết dù thuộc chủ đề nào trong 4 chủ đề đều có giá trị riêng theo tính chất của từng bài. Nêu lên bài viết này và không nêu lên bài viết khác trong bài giới thiệu tổng quan này chỉ để nhấn mạnh những điểm cốt yếu cần thiết trong khung cảnh hay phạm vi có giới hạn và chừng mực, chứ không có nghĩa là bài này có giá trị đóng góp còn bài kia thì không. Thật ra, mỗi bài đều có góc độ đóng góp riêng, không thể so sánh được. Khi chấp bút viết bài giới thiệu này, chúng tôi có cảm giác như người đi vào trong một kho tàng, khi cần mang châu báu ra giới thiệu cho công chúng thì phương tiện để mang đi chỉ là hai vốc tay mà thôi. Dưới đây Ban Biên tập xin được giới thiệu nội dung của quyển Kỷ yếu qua việc cố gắng trình bày một cái nhìn mang tính chắt lọc theo những mức độ khác nhau đối với từng chủ đề cụ thể.

6

CHỦ ĐỀ 1: TỔ SƯ MINH ĐĂNG QUANG: CUỘC ĐỜI VÀ ĐẠO NGHIỆP

Có 10 tham luận xoay quanh chủ đề này. Đa số các bài viết thể hiện được chất lượng nghiên cứu, các học giả đã vận dụng được những phương pháp biên khảo khoa học bài bản. Khởi đầu với tham luận của Hòa thượng Thích Trung Hậu, tựa đề “Tổ sư Minh Đăng Quang với phong trào chấn hưng Phật giáo cùng tâm nguyện Nối truyền Thích-ca Chánh pháp”. Tham luận đã nêu lên mối liên hệ giữa Tổ sư Minh Đăng Quang với phong trào chấn hưng. Khá nhiều tham luận có giá trị khác, khám phá nhiều thông tin quý giá, tìm ra và bổ sung thêm những chi tiết, góp phần cho những câu chuyện lịch sử được đầy đủ và sinh động. Nhờ đó, cuộc đời của Tổ sư Minh Đăng Quang hiện ra rõ nét hơn[1].

Nhìn tổng quát, những lời ca ngợi Tổ sư Minh Đăng Quang nằm trong chủ đề này có khi thâm trầm sâu lắng, nhưng cũng có lúc bộc trực với sắc màu cảm tính, thậm chí có đôi chỗ thiếu tế nhị, nhưng mẫu số chung vẫn là tấm lòng chân thành của mọi người dành cho bậc chân tu đạo hạnh. Đối với những hạt sạn trong chữ nghĩa, chúng ta cũng nên “đạt ý quên lời” mà dung thông vô ngại, chứ không thể yêu cầu một người không phải là một nhà văn, nhà nghiên cứu cung ứng cho chúng ta sự tinh tế trong câu chữ, bố cục chặt chẽ hay lập luận vững chắc.

Cái nhìn khách quan vẫn là cái mà những bài viết hướng về, “...bất luận một tôn giáo nào hay một hệ phái nào, hình thành rồi phát triển được quần chúng công nhận và tồn tại lâu dài thì tất nhiên tôn giáo ấy phải thực sự đem lại lợi ích cho nhân sanh”[2]. Có bài viết đã nêu lên tinh thần phá chấp của Tổ sư Minh Đăng Quang, xem Tổ sư Minh Đăng Quang là hiện thân sống động của giai thoại “nắm lá trong tay”. Bài viết cũng đã ghi nhận rằng nơi Tổ sư Minh Đăng Quang có sự lưu thông và nhất quán xuyên suốt giữa hành vi hàng ngày với các phương diện khác như tư tưởng và ngôn ngữ, lập thuyết và hành động; đồng thời nêu lên mối liên hệ giữa vô ngã với đạo đức. Quả thật mối liên hệ này liên quan đến vấn đề then chốt trong đạo đức học hay triết học đạo đức[3].

Về mặt tư tưởng, một số ngòi bút khác nhau cùng chia sẻ với nhau một nhận thức về mối liên hệ giữa Tổ sư Minh Đăng Quang với tư tưởng Hoa Nghiêm[4]. Như là thành quả của một quá trình suy tư tinh tế và thâm sâu, có ngòi bút đã ghi nhận được mối liên hệ giữa tâm thái của Tổ sư Minh Đăng Quang với cảnh giới Hoa Nghiêm:“...Chơn lý mộc mạc, giản dị, nên hầu như ai cũng hiểu được. Tuy nhiên cũng đừng vì sự mộc mạc, giản dị mà để không rốt ráo hiểu sâu thêm. Muốn đạt được sự đơn giản phải trải qua nhiều giai đoạn phức tạp giống như làm toán đơn giản phân số. Bộ Chơn lý ai cũng hiểu, thật ra ngầm chứa nhiều nội dung kinh điển, nhất là Kinh Hoa Nghiêm bất khả tư nghì[5]. Một ngòi bút dù không trực tiếp nhưng đã đồng thanh ở điểm này, nêu lên“Ngài phá bỏ những rào cản tông, phái, giáo, vật sở hữu... cho những ai đang muốn đi theo chân như Phật về chốn an vui. Một điều đặc biệt Ngài đã lưu ý mà mọi người ít quan tâm là ‘Việt Nam Đạo Phật không có phân thừa’. Quả thật phải là bậc thấu triệt chân lý, giác ngộ sâu xa rằng chỉ có một pháp giới chân thật trùm khắp mười phương ba cõi mới hiểu được cái lẽ Một của vũ trụ nhân sanh”[6].

Trong mảng giáo pháp mà Tổ sư Minh Đăng Quang chủ trương, có bài viết nhận ra giá trị của pháp môn khất thực, một pháp môn tự ngàn xưa được phục hoạt, xưa đến đỗi có nơi đặt danh xưng mới cho pháp môn này là “Cổ Phật khất thực”. Hình tượng của pháp môn cổ đại này đã được bàn tay trí tuệ của Tổ sư Minh Đăng Quang phác họa và đưa ra thực hiện. Hình thái khất thực mà Tổ sư Minh Đăng Quang tiếp thừa chế tác dĩ nhiên không giống hoàn toàn với kiểu khất thực hiện đại ‘cho gì nhận nấy’ kể cả tiền bạc hay ngân phiếu; mặt khác nó cũng không giống với kiểu ‘tam tịnh nhục’ của thời xa xưa thuộc hệ Nam truyền. Pháp môn khất thực mà Tổ sư Minh Đăng Quang chủ trương và thực hiện hướng đến một mục tiêu quan trọng nhất và tiên quyết nhất: Pháp môn thực tiễn này phải là cửa ngõ dẫn hành giả đi vào “Cửa Khất sĩ đường Như Lai”. Trên con đường đó, lợi đắc hay danh xưng, âm thanh hay sắc tướng... đều bỏ lại sau lưng. Có đoạn viết, “Thật ra, trì bình khất thực không phải là pháp tu do Ngài đặt ra. Thời đức Phật còn tại thế, Người đã áp dụng lối tu này. Nhưng điểm nổi bật của Tổ sư Minh Đăng Quang chính là đã vận dụng đường lối này trong sự dung hợp của hệ phái Bắc và Nam truyền để trở thành một mô hình mẫu, vừa có thể dễ dàng áp dụng, đưa tới sự giác ngộ và chứng ngộ thông qua sự trải nghiệm thực tiễn, đó chính là chơn lý”[7]. Như vậy sự nối truyền trong tông chỉ “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp”của Tổ sư Minh Đăng Quang không phải là sao y bản chánh, cũng không phải đơn thuần là sự dung hợp mà còn là nhận chân được mục đích ý nghĩa trong pháp tu này ở dạng tinh túy nhất của nó. Điều có sức thuyết phục cỡ ‘ngoan thạch điểm đầu’ là tinh túy đó được Ngài thể hiện qua việc thực hành hằng ngày và phát huy được tác dụng cao nhất trên lộ trình khai sáng.

Trong một bài viết thuộc chủ đề này có đoạn, “nhiều người đã phát tâm xuất gia, theo chân Tổ sư Minh Đăng Quang tiến bước trên con đường giải thoát. Theo con đường đó, có ba giáo pháp, Khất sĩ Thanh Văn, Khất sĩ Duyên Giác và Khất sĩ Bồ-tát cho mỗi người lựa chọn. Thế nên mỗi căn cơ đều được Tổ sư Minh Đăng Quang tiếp độ”[8]. Rõ ràng, xây dựng Tăng đoàn trước hết là xây dựng một cảnh giới, trong đó mọi thành viên, mọi Tăng thân đều có điều kiện tốt để tu dưỡng và phát triển trên phương diện đạo đức tâm linh. Đó là cảnh giới lục hòa của nhà Phật, nơi un đúc tinh hoa theo từng hạng bậc. Cảnh giới đó khiến cho trình độ nào cũng cảm thấy mình được dạy, hoặc là mình được học, hoặc là mình được cả hai cùng một lúc. Mặt khác, chuyện “kiến thức riêng chỉ giải cho nhau” không chỉ hạn cuộc trong việc dạy nhau và học nhau nơi nội bộ của sơn môn mà còn mở rộng đến các vị cao Tăng thạc đức, cụ thể Tổ sư Minh Đăng Quang đã đến viếng thăm,thỉnh vấn, trao đổi với Tổ Thiên Thai ở Bà Rịa, Thiền sư Minh Trực ở chùa Phật Bửu - Sài Gòn,... Hơn nữa, chuyện “kiến thức riêng chỉ giải cho nhau” cũng không bị hạn cuộc trong thế giới của người xuất gia mà mở rộng đến hàng cư sĩ, cụ thể Tổ sư Minh Đăng Quang đã đến viếng thăm, chia sẻ trao đổi với cụ Mai Thọ Truyền ở chùa Xá Lợi. Như vậy, đối tượng hành đạo của Tổ sư Minh Đăng Quang rất rộng rãi. Qua đó mối quan hệ xin-cho, học-dạy của Tổ sư Minh Đăng Quang được vận dụng một cách rất khoáng đạt, không vướng mắc hay hạn cuộc ở một phạm vi hay một cương vị nhất định nào, phản ánh tinh thần một là tất cả, tất cả là một, và với tinh thần cần cầu thiện tri thức của kinh Hoa Nghiêm. Kết quả là ai nấy đều được nâng cao về pháp học cũng như pháp hành.

Nội dung những bài viết thuộc chủ đề này cho thấy rằng về mặt phát triển nhân sự, Tổ sư Minh Đăng Quang chủ trương Tăng chúng tu tập lục hòa, đồng thời cũng chấp nhận việc riêng tu một mình sau khi trải qua một thời gian nhất định được thầy dẫn dắt và vun bồi đạo hạnh. Về mặt tổ chức Tăng-già, Tổ sư Minh Đăng Quang cũng không chủ trương đơn nhất mà chia ra hành xứ và trụ xứ, giáo hội nhánh và giáo hội trung ương để đảm bảo tính chặt chẽ trong tổ chức và phù hợp với pháp hành của Tăng chúng, đồng thời đáp ứng nhu cầu tu học của quần chúng Phật tử. Các hoạt động định kỳ của Tăng đoàn cũng sớm định hình và duy trì. Khóa an cư đầu tiên được xem là đã được thực hiện ở Phú Mỹ - Mỹ Tho vào năm 1948[9].

Cũng trong chủ đề này có hai ghi nhận khá lý thú về mặt dụng ngữ của Tổ sư Minh Đăng Quang. Một, việc đặt tên cho các cơ sở tịnh xá, mỗi tịnh xá đều có tên bắt đầu bằng chữ “Ngọc”. Câu hỏi đặt ra là phải chăng Tổ sư Minh Đăng Quang hàm ý rằng mỗi một cơ sở tôn giáo nên là một viên ngọc quý để tô điểm cho non sông gấm vóc Việt Nam, cho nền đạo đức của dân tộc Việt Nam. Hai, việc sử dụng từ “Chơn lý” thay cho “Chân lý”, “Võ trụ” thay cho “Vũ trụ” đã làm giàu lên kho phương ngữ mà Tổ sư Minh Đăng Quang sử dụng. Một kho phương ngữ ẩn chứa nhiều điều lý thú. Câu hỏi được đặt ra là, phải chăng việc vận dụng phương ngữ để hướng đến xây dựng bản sắc riêng của người Việt là một phần trong chương trình tập hợp nguyên vật liệu và sức mạnh để làm nên sự nghiệp giải Ấn hóa và giải Hoa hóa mà nội dung thuộc chủ đề này đã ghi nhận?

CHỦ ĐỀ 2: TƯ TƯỞNG PHẬT HỌC CỦA TỔ SƯ MINH ĐĂNG QUANG TRONG BỘ CHƠN LÝ

Chủ đề này nhận được số lượng bài tham luận nhiều nhất, 69 bài. Như vậy là nhiều hơn tổng số tham luận của ba chủ đề còn lại. Nội dung được chuyển tải chắc chắn là phong phú hơn và có chiều sâu hơn.

Khởi đầu là bài tham luận quý giá của Hòa thượng Thích Đức Nghiệp, tựa là “Ý nghĩa bài thuyết pháp đầu tiên ‘Thuyền Bát-nhãcủa Đức Tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập Hệ phái Phật giáo Khất sĩ Việt Nam”. Thuyền Bát-nhã biểu trưng cho trí tuệ giác ngộ, vượt qua bể khổ sông mê tới bờ giải thoát, biểu trưng cho hành động chân chính.

Chủ đề này phong phú và đa dạng, chứa đựng những lời ca ngợi tư tưởng Phật học của Tổ sư Minh Đăng Quang, từ những lời và ý có tính bộc trực đến những ý những lời tinh tế, sâu lắng, thể hiện những xúc cảm chân thành[10]. Mặt khác, những ngòi bút mang yếu tố phản biện cũng tập trung hầu hết ở đây. Lại có những ngòi bút thiếu chín chắn và có chút tinh nghịch. Tất cả hòa quyện thành một bức tranh phong phú về nội dung ý tưởng, đa dạng về ngôn ngữ thể hiện. Quả thật, có nhiều điều lý thú, kích thích tư duy nơi người đọc.

Tuy nhiên, làm nên giá trị cốt lõi của tập kỷ yếu, cụ thể chính là những bài viết thuộc chủ đề này, chuyên sâu đỉnh cách với những nét lập luận sắc bén, dụng từ chính xác, làm thỏa lòng người đọc. Ngược lại nơi những bài khác, chúng ta, như đã nói, không thể yêu cầu một người cung ứng cho ra một bài viết chặt chẽ về bố cục, lập luận vững chắc, câu cú mạch lạc. Đọc với tâm trạng dung thông thì sẽ thấy những nét dễ thương lộ ra, thấy tấm lòng và sự cố gắng của người viết.

Nhìn từ khung giáo lý nền tảng Giới-Định-Tuệ thì chủ đề này có những ngòi bút chuyên sâu đáp ứng tốt điều cần đáp ứng. Giới trong nghĩa rộng chỉ cho đạo đức có ngòi bút đã đặt điểm nhấn đúng chỗ và nêu được tính cách của con người triết học đạo đức trong nhân cách của Tổ sư Minh Đăng Quang[11]. Ở mặt khác, từ Giới chỉ cho giới luật nhà Phật đã nhận được bài khảo cứu có độ chuyên sâu đỉnh cách[12]. Tuy không thuộc hẳn chủ đề này nhưng có ngòi bút đã nêu lên một kết nối mới mẻ rất sáng tạo giữa giáo lý Tứ ân và giáo lý Lục hòa,Tứ nhiếp với giáo lý Khất sĩ[13].

Trăn trở với mong muốn làm sống dậy nếp sinh hoạt tiêu biểu của vị chân tu có đạo hạnh, thể hiện qua thời biểu hàng ngày có tên là “Niết-bàn thời khắc biểu”, có bài viết đã truyền tải xúc cảm có sức lay động lòng người[14]. Chủ trương giải thoát hay chí ít cũng giản lược tối đa vấn đề ăn uống của Khất sĩ như là một tiêu chí của đạo đức cũng được nêu lên rõ nét[15]. Phương tiện chính trong việc hóa đạo của Khất sĩ không phải là cầu cúng hay xem kiết hung hạn vận mà là “khoe sự tốt đẹp của giới hạnh” cũng được gợi lên[16]. Lại có ngòi bút đã bất ngờ nêu được cái nhìn sâu sắc đối với những điều căn bản của sự sinh tồn, ăn mặc ở bịnh. Đơn cử câu nói về cái ăn, “Ăn là hành động hàng ngày của mỗi người. Ăn vừa là bản năng sống vừa là bản năng hưởng thụ. Cho nên từ ăn, người ta có thể gây ra biết bao tội lỗi, từ ăn người ta có thể thực hành pháp tu rốt ráo. Ăn đúng pháp sẽ giúp cho người xuất gia thực hành chánh hạnh đưa đến an tịnh thân tâm”. Ba việc còn lại: mặc, ở và bịnh, đều được nhận thức thấu đáo, hướng đến việc tu tập tự thân trong đời sống, trong nếp sinh hoạt hàng ngày[17].

Ở mảng thiền định, một trong những pháp hành trì nổi trội của Khất sĩ đã thu hút những bài viết với độ chuyên sâu đáng kể và phương pháp khoa học chuẩn mực thể hiện qua việc cước chú cẩn thận và danh mục sách tham khảo đầy đủ[18]. Một bài viết đã giúp soi sáng thêm cho những mối liên hệ mù mờ trong giáo pháp đạo Phật, nêu lên được những chuyện tinh tế mà nhiều người tưởng đâu đã biết rồi nhưng chưa thật sự biết một cách đầy đủ, cụ thể là quan điểm: “Số tức quan phát ra trong khi gần nhập định, chứ không phải mượn số tức quan làm mục đích để niệm, để được thiền định[19].

Mảng trí tuệ nhận được những khảo cứu chuyên sâu đã chia sẻ nhiều điều có giá trị nhận thức rất sắc nét. Vấn đề đặt ra cho chuyện học rất thiết thực, học cái gì, học với ai và học thế nào. Có những ngòi bút làm nổi bật lên những điểm quan trọng, đơn cử như Khất sĩ không chỉ là một danh xưng, một tên gọi; Khất sĩ đã được Tổ sư Minh Đăng Quang đẩy lên làm một nguyên lý sống, mà sống đúng nghĩa lại là tu tiến ở nhiều phương diện. Vì vậy tu chính là nền tảng, là căn cước của Khất sĩ. Khất sĩ có nghĩa là tu, mà tu tiến thì bao gồm cả học và dạy. Như vậy Khất sĩ bao gồm cả hai chuyện mới tròn một chữ tu. Một điều nữa, mục đích của từng chặng của việc học cũng như mục đích tối hậu của việc học là thấy được thể tánh hay còn gọi là kiến tánh. Kiến tánh ở đây không có nghĩa mang tính trừu tượng khó hiểu mà lại đồng nghĩa với sự thấu đạt chơn lý[20]. Cũng trong mảng này, một ngòi bút đã chia sẻ cái nhìn rất nét về phương diện giáo dục, gợi lên cho chúng ta nhận thức rằng những người đệ tử đầu tay của Tổ sư Minh Đăng Quang rất hạnh phúc được thọ lãnh một loại hình giáo dục đặc biệt trực tiếp và âm thầm qua tất cả các kênh mà chúng ta có thể tưởng tượng ra[21]. Hàng ngày mắt thấy Tổ đi đứng nói cười, hàng ngày tai nghe tiếng Tổ giảng giải giáo pháp, hàng ngày cảm nhận tấm lòng từ bi hỷ xả từ Tổ, hàng ngày sống trong ánh sáng trí tuệ từ cách mà Tổ thể hiện, hàng ngày được nương tựa nơi Tổ mà hạ thủ công phu, tinh chuyên thiền quán, triển khai Phật sự. Kết quả của nền giáo dục kiểu gia giáo và trực tiếp đó là những con người mới là thợ mộc, nông dân, thợ tóc hôm trước, chẳng bao lâu đã lột xác phàm trở thành những vị Sa-môn giải thoát, mô phạm và thanh cao, đáng được người đời kính ngưỡng. Nơi những vị đó, kiến thức hàn lâm học đường thì ít; bù lại, thần thái, phong cách, uy nghi, phạm hạnh thì nhiều. Có thể nói, đó là kiểu giáo dục trực tiếp, những phẩm tính tinh túy thấm thẳng từ xương cốt của Tổ sư vào xương cốt của đệ tử. Hàm dưỡng được những tinh túy như vậy, những vị đại đệ tử phát huy nhiều thêm trong quá trình huân tu và nhiếp hóa mà trở thành những vị ĐệNhịTổ, dù chính thức cho tới nay chỉ có một vị Đệ nhị Tổ mà thôi.

Tạo nên thần thái về mặt tư tưởng của tuyển tập là những bài viết có tính chất chuyên sâu và có độ tinh tế. Có bài viết đã gợi lên được ý thức tìm về nguồn cội mà Tổ sư Minh Đăng Quang đề ra như là một tông chỉ: “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp”. Tìm về nguồn cội là tìm về “sức mạnh mang tên của nó”, sức mạnh này được định danh là “Phật giáo chính gốc”; Phật giáo này đang xa chệch và sự xa chệch này đang xé hai Đạo Phật. “Xé hai Đạo Phật” là một cụm từ có sức biểu cảm mạnh mẽ, có thể nói là thống thiết. Bài viết này cũng đã tinh tế và sắc nét trong việc không dùng từ “Tích hợp” mà thay vào đó là từ “Hiệp chung”. Với từ “Hiệp chung” này tố chất của một con-người-triết-học-đạo-đức trong Tổ sư Minh Đăng Quang bỗng hiện ra rõ nét hơn[22].

Lại có ngòi bút đã cố gắng trả tầm quan trọng của việc dung hợp Nam Bắc tông về đúng vị trí của nó. Điều này gợi lên vấn đề cái nào là chính, cái nào là phụ. Nói rõ hơn, ngòi bút đặt câu hỏi, Tổ sư Minh Đăng Quang dung hợp để có giáo pháp hay Tổ đã có giáo pháp rồi và chỉ dung hợp các yếu tố được xem là tinh túy để làm phương tiện rồi sử dụng các phương tiện nhằm triển khai giáo pháp. Hay xuề xòa hơn, khi cho rằng đây là con đường hai chiều mỗi bên có số làn xe bằng nhau. Ngòi bút bỗng tỏa sáng bất ngờ khi cho rằng: “Tinh thần Khất sĩ là tu tập để đi vào tánh giác ngộ mà Tổ gọi là cái biết. Đức tánh giác ngộ này không nằm ở giáo nghĩa Tiểu thừa hay Đại thừa mà nằm ở chỗ tu tập có đúng chơn lý hay không”[23].

Ngoài ra còn có những cái nhìn mang tính phổ biến hơn đối với vấn đề dung hợp, cụ thể có bài viết nói:“Tổ sư đã khéo léo kế thừa, thâu hóa sáng tạo những tinh túy mang tính dung hòa giữa hai truyền thống”[24]; “Tổ sư đã phối hợp được tinh hoa đường lối của Nam và Bắc truyền”[25]. Lại có bài viết đã gợi lên một mối liên hệ mới, mối liên hệ giữa chuyện dung hợp và trung đạo, cho rằng:“Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam được đức Tôn sư sáng lập mang tinh thần ‘trung đạo’ giữa hai truyền thống Nam tông và Bắc tông[26].

Từ “Khất sĩ” với động từ là “khất thực” theo cách hiểu thông tục và bình phàm nhất thì chỉ có nghĩa là phương tiện sinh nhai của vị tu sĩ Phật giáo. Trong đôi mắt của Tổ sư Minh Đăng Quang, từ “Khất sĩ” trở thành một danh từ mang một nội hàm với độ biến mãn của Hoa tạng thế giới, của Tỳ-lô-giá-na tàng. Nó bao trùm từ cái chuyện đời thường nhất như chén cơm manh áo đến chuyện trừu tượng cao siêu như là một nguyên lý tổng trì thống nhiếp tất cả. Vũ trụ càn khôn và trùng trùng pháp giới đều bị chi phối bởi nguyên lý này. Tất cả đều nằm gọn trong nguyên lý duyên sinh.

Khất thực hay đi xin ăn mà có tới ba tầng bậc và chín mục đích, có ngòi bút đã trích lời Tổ và liệt kê đầy đủ. Không chỉ như vậy, mối liên hệ giữa ăn xin và nguyên lý duyên sinh được một ngòi bút khác khơi gợi, “Phạm trù của hai chữ ‘Khất sĩ’ thật là thông thấu và sâu rộng. Mối tương quan tương duyên của vạn vật trong vũ trụ lại không nằm ngoài hai chữ Khất sĩ[27]. Cần trích dẫn một chút lời Tổ sư trong bài “Khất sĩ”của Chơn lýở đây: “Đất xin nước, đất mới sống khỏi chết khô. Cỏ cây xin đất nước mới sanh chồi mọc nhánh. Thú xin đất nước cỏ cây mới có đi chạy. Người xin thú cỏ cây đất nước lửa gió mới có nói làm. Trời xin người thú cỏ cây tứ đại mới sanh thức trí. Phật lại xin nơi Trời người thú cỏ cây tứ đại mới được giác chơn”.

Như vậy, ở chiều kích triết học, Khất sĩ được xem là một cách diễn đạt khác của nguyên lý duyên sinh. Ở chiều kích đạo đức học, ăn xin lại có một kết nối tinh tế với giáo lý Tứ ân như đã đề cập ở trên,“Giáo lý Tứ ân của Đức Phật có phần nhớ ơn, đền ơn chúng sinh. Đây cũng là ý nghĩa của “xin” trong giáo lý của Tổ sư Minh Đăng Quang vậy[28].

Con đường tu trong đạo Phật từ bờ mê sang bến giác có khi được diễn đạt là con đường trở về, trở về cảnh giới chân như của tự tánh. Ý tứ này được một đoạn viết khơi gợi lên bằng câu nói:“Ai hiểu được Khất sĩ trong mối tương quan tương duyên của vũ trụ thì người ấy sẽ có đời sống an lạc và giải thoát. Và chữ ‘khất sĩ’ cũng chính là sự trở về, khất sĩ chính là tự tánh, khất sĩ cũng gọi là chơn lý, là Phật tánh...”. Xin thưa thêm, ý tứ trên đặt trên nền tảng của giả định: Có một tự tánh. Bài viết đã đi đến việc xây dựng cụm từ, “nghĩa lý huyền vi của đạo ăn xin cao cả”[29].

Chữ “nhẫn” trong đạo Phật không chỉ là một trong sáu hay mười Ba-la-mật chỉ cho tâm thái “kiên trì chịu đựng sự căm ghét hay phỉ báng của kẻ khác, chịu sự khổ ải mà không mất đạo tâm tinh tiến”[30]. Chữ “nhẫn” trong đạo Phật còn có một nội hàm siêu phóng trong giáo lý Tứ Gia hạnh với đỉnh cao là “Vô sanh pháp nhẫn”. Có ngòi bút đã phần nào nhận ra chỗ cao sâu tinh tế này và nói rằng xin ăn không phải hèn kém mà giúp cho người chân tu rèn luyện chữ nhẫn... “Đồng thời qua đó còn giúp người tu luyện trí, tạo cho mình những niềm lạc quan siêu thoát hơn”[31].

Cánh chung luận ở những triết thuyết tín ngưỡng khác gần như là dạng muốn-gì-được-nấy do một quyền-năng-không-giới-hạn ban tặng bất chấp nguyên lý nhân quả, trong đạo Phật nếu giả định rằng có một dạng cánh chung thì đó là trạng thái thảnh-thơi-khỏi-mọi-áp-lực-của-ý-muốn. Trạng thái thảnh thơi này là một cách diễn đạt khác của việc sống trong cảnh giới chân như của Phật tánh, có thể nói gọn là sống Phật tánh. Đó là trạng thái của Phật tánh đang hoạt dụng.

Có bài viết biểu đạt sự cảm nhận và khai thác được ý tứ trên với câu trích dẫn từ bài “Phật tánh” trong Chơn lý,“Tánh là nguyên lý sanh ra chúng sanh, vạn vật các pháp. Tánh tức là võ trụ không gian trơ lặng. Tánh là bản nguyên của tất cả. Tánh là gốc nguồn của muôn loại. Tánh cũng là bản chất đầu tiên của võ trụ. Tánh là họ, vốn, chơn thật của cả thảy”. Bằng ngôn ngữ hiện đại, chúng ta có thể nói tánh là hằng số, là mẫu số chung của tất cả. Bài viết trên kết luận rằng chữ tánh của Tổ sư Minh Đăng Quang đã bao trùm chữ Phật tánh trong nhà Phật[32]. Ở mức độ tinh tế chúng ta còn có thể cảm nhận rằng ngoài việc bao trùm ý nghĩa của từ Phật tánh của đạo Phật, chữ tánh của Tổ sư Minh Đăng Quang còn phảng phất phong vị của triết học phiêu diêu bát ngát và phong cách ngôn ngữ kỳ vĩ mà Lão Trang từng thể hiện.

Lại có ngòi bút đã giúp cho người đọc cảm nhận thêm nhiều khía cạnh nữa của chữ tánh. Trong hành trình khám phá bài Chơn lý “Tánh thủy” với sự phân tích có sức thuyết phục và những thuật ngữ được dùng như “tri nhận”, “nghiệm thân”... tác giả bài viết đã khiến cho người đọc cảm nhận về chữ tánh càng lúc càng nhuần nhị hơn. Khi sự cảm nhận thấm dần đến độ chín mùi về những tính chất vĩnh hằng của tánh thủy, đắc địa và đúng lúc ngòi bút đã nêu bật lên, “Tánh thủy là tánh Phật[33]. Khất sĩ, trong ý nghĩa cao siêu linh thánh nhất, chính là sự trở về tự tánh, một dạng hoạt dụng của Phật tánh.

Phật tánh đang hoạt dụng có nghĩa là mọi hành vi, lời nói hay ý tưởng đều lưu xuất từ Phật tánh và vì vậy mà khế hợp với Phật tánh, nói gọn là khế lý. Có bài viết đã nêu lên được một nhận thức bao quát về điều này khi đề cập đến ba biên độ của khế lý: Khế lý của tổng thể vô tận, khế lý trong hành xử của người sống với Đạo, và khế lý của các pháp trong thực tiễn tu học[34].

Như đã nói, trong đạo Phật nếu giả định rằng có một dạng cánh chung thì đó là trạng thái thảnh-thơi-khỏi-mọi-áp-lực-của-ý-muốn, trạng thái này còn được gọi bằng thuật ngữ Niết-bàn. Niết-bàn là trạng thái vô ngã. Điều này được khẳng định như là một chân lý khi được làm thành một tựa sách“Vô ngã là Niết-bàn[35]. Một bài viết[36]đã nêu lên được tinh túy trong lời dạy của Tổ sư Minh Đăng Quang. Trong đó cảnh giới Niết-bàn, cảnh giới vô ngã, được Tổ sư diễn đạt trong bài “Khất sĩ” là cảnh giới không hai của cái biết:“Chính biết là ta, là mục đích của chúng sanh, là chơn lý của cuộc đời, là tinh ba của võ trụ. Chính chơn lý hay triết lý mới là môn học thật tế, ích lợi đi ngay đến Niết-bàn, kêu là đạo,là sự học không hai, là cái học của ta, nó ở với ta, nuôi sống cái ta, nó là ta vậy”.

Đã ở trong cảnh giới Niết-bàn, đã là vô ngã thì dĩ nhiên là “vô sở trụ” và khi ấy tất cả phạm vi mà khái niệm chủng loại mang tính cắt chia thực tại, xây dựng tự ngã, đều là sản phẩm của vọng tưởng. Tất cả cái để thuộc về và tất cả cái thuộc về đều là trói buộc. Nói một cách đơn giản hơn, tất cả danh xưng đều là phù phiếm. Một ngòi bút[37]đã cảm nhận được ý tứ trên trong Chơn lý, “không phải nhận riêng mình là gia đình, xã hội, thế giới, chủng loại nào”.

Tư tưởng, nhận thức, ý tứ dù có trác tuyệt, siêu phóng hay thông đạt đến độ vượt qua “bách xích can đầu” đi nữa thì vẫn là những cái trừu tượng, siêu hình. Muốn những cái trừu tượng siêu phóng trác tuyệt phát huy tác dụng cứu nhân độ thế thì phải có chiếc áo ngôn ngữ ở chính bình diện ngôn ngữ và những bình diện khác như kiến trúc, nghi lễ, tín ngưỡng, pháp phục... Những bài viết xếp trong chủ đề này bàn thảo một cách có chiều sâu về phương diện nghi lễ và tín ngưỡng.

Điều có thể nhận thấy rõ là nơi Tổ sư Minh Đăng Quang có sự lưu thông đến độ không ngăn ngại và sự nhất quán đến độ hoàn toàn hợp nhất giữa tư duy, ngôn ngữ và hành động. Nói theo phong cách của kinh Pháp cú là, nói gì làm vậy và làm gì nói vậy. Một ngòi bút biểu đạt sự cảm nhận và nói:“Tổ sư Minh Đăng Quang thông qua những trải nghiệm có tính chất nghiệm thân (embodiment)... từ đó hình thành nên những ứng xử Phật giáo của mình[38].

Như đã nói, mảng nghi lễ và tín ngưỡng được những ngòi bút bàn thảo một cách có chiều sâu. Nghi lễ của Khất sĩ có tính chất tối giản, Việt hóa tối đa, loại trừ hầu hết những yếu tố có thể dẫn đến mê tín, thần quyền, đưa đạo Phật trở về trạng thái ban sơ trong sáng đơn thuần của nó, một dạng đạo Phật mà Tổ sư Minh Đăng Quang gọi là “Thích-ca Chánh pháp”. Một trong những phương cách để chuyển tải đạo Phật – dạng đạo Phật giản đơn và thuần khiết – là thực hiện Việt hóa nghi lễ, cụ thể là lễ tụng. Với bối cảnh tâm tư như vậy, Tổ sư Minh Đăng Quang tự giác và có đầy đủ ý thức trong việc Việt hóa nghi lễ rồi áp dụng cho dòng truyền thừa mà mình khai sáng. Một ngòi bút đã cảm nhận và nói:“Minh Đăng Quang cho rằng trong quá trình truyền bá Phật giáo về sau, hàng rào ngôn ngữ chính là một trong những cản trở khiến người ta xa rời nội dung triết học đạo đức sâu sắc mà chạy theo hình thức tôn giáo phụng thờ nông cạn[39].

Có tâm nguyện chí thành trong chủ trương Việt hóa và có đủ hùng lực và đủ sáng suốt thực hiện chủ trương Việt hóa, ngôn ngữ hiện đại gọi là có tâm và có tầm, nên Tổ sư Minh Đăng Quang đã thiết kế một dạng ngôn ngữ nghi lễ riêng, trong đó những yếu tố Hán hóa, Pāli hóa hay chú thuật thần bí hóa, dẫn đến việc hình thành nên cảm thức thần quyền, hầu như không có mặt. Một bài viết đã nắm bắt được tinh thần và ý nghĩa của nghi lễ mà Tổ sư Minh Đăng Quang thể hiện, đã viết:“Tổ sư cũng đã giải thích được ngọn ngành nguyên nhân, hoàn cảnh ra đời của nghi lễ là gì và dù nghi lễ, hình thức đến đâu đi nữa thì cốt lõi của nó vẫn là sự thể hiện niềm cung kính, tăng trưởng niềm tin làm nền tảng cho sự nghe, học hỏi và hành trì Pháp bảo cao quý[40]. Với cùng mạch nhận thức đó, một bài viết có chiều sâu và tính bao quát về Nghi lễ Khất sĩ, đã nhận ra rằng, “Đức Tổ sư Minh Đăng Quang đã khéo léo vận dụng kinh văn trong lễ tụng của hệ phái sao cho gần gũi với đồng bào miền Nam, không bóng bẩy, không hàn lâm, mộc mạc nhưng đậm đà sâu lắng lời Phật dạy, nhằm dễ dàng giáo hóa người dân đương thời, giúp đạo Phật đi vào đời sống của người Nam Bộ như một bài ca dao mang đậm tính truyền thống nhân văn”[41]. Cũng ở mảng nghi lễ, một bài viết khác đã nêu lên nhận định chính rằng nội dung tụng niệm của Khất sĩ mang tinh thần Bắc tông, trong đó yếu tố Tịnh độ ở mức độ cao. Bài viết còn có thêm một nhận định phụ:“So với nghi thức Phật giáo Nam tông còn nặng về chữ Pāli hay Phật giáo Bắc tông nặng về Hán Việt, lại còn quá nhiều nghi thức khác nữa. Thậm chí trong các ngôi chùa ngoài Bắc, cũng có những nghi thức được biên soạn theo tiếng Việt, nhưng mỗi chùa mỗi nghi thức khác nhau vì không theo tiêu chuẩn nào. Do vậy, Nghi thức tụng niệm của Hệ phái Khất sĩ về số lượng ít hơn, lại dùng các thể thơ truyền thống của người Việt diễn dịch chính là ưu điểm lớn, bởi theo hình thức này khá phù hợp với quần chúng Phật tử ở Nam Bộ”[42].

Ngoài ngôn ngữ của nghi lễ còn có ngôn ngữ của tín ngưỡng, mà tín ngưỡng của tuyệt đại đa số người theo Phật giáo với chỉ số thuần thành từ đậm nhất đến nhạt nhất là tín ngưỡng Quán Âm. Ở mảng này một ngòi bút đã trình bày một cái nhìn sắc nét. Quan điểm chính là hướng về sự tu tập bản thân trong mối tương quan với tha nhân và vạn loại[43]. Động lực của việc tu tập là lòng từ ái vô biên đối với chúng sanh, chất xúc tác cho việc tu tập là cảnh đau khổ vô hạn của chúng sanh, ánh sáng dẫn đường lại là trí tuệ bất nhị của nhà Phật. Đây là một đề tài khá tế nhị, cần phải nhìn từ nhiều phương diện và mỗi phương diện lại cần phải nhìn theo nhiều lớp nghĩa, từ cạn đến sâu. Do vậy, không dễ gì một bài viết mà lý giải được hết. Ngôn ngữ trần gian vốn có hạn.

Như đã nói ngoài ngôn ngữ của nghi lễ và ngôn ngữ của tín ngưỡng còn có những dạng ngôn ngữ thể hiện trong các phương diện khác như kiến trúc, pháp phục... Đó là những phương diện cần được trình bày thêm ở những văn cảnh thích hợp trong hai chủ đề còn lại.

CHỦ ĐỀ 3: PHẬT GIÁO KHẤT SĨ: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

Chủ đề nàygồm 13 bài, có những bài viết cận cảnh khi tập trung đặc tả một khía cạnh chuyên biệt, cụ thể như chỉ bàn về cơ cấu tổ chức nhân sự của Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam (ĐPKSVN), lại có những bài viết chung cảnh bàn về một giai đoạn nhất định nào đó của ĐPKSVN, lại có những bài viết bao quát hơn cung cấp những thông tin về các tổ chức Khất sĩ khác như Khất sĩ Sơn Lâm, Khất sĩ Non Bồng, và các nhóm Khất sĩ riêng lẻ chưa thuộc hẳn vào sự chứng minh và lãnh đạo của Hệ phái.

Tương tự như ở các chủ đề khác, chiếm một lượng lớn là những ngòi bút có cái nhìn tích cực đối với ĐPKSVN và nhất là đối với Tổ sư Minh Đăng Quang, đối với bộ Chơn lý và Hệ phái Khất sĩ nói chung. Trong dụng ngữ của những ngòi bút, chúng ta không chỉ thấy cụm từ “Kết hợp tinh hoa từ Nam và Bắc tông” mà những vị Khất sĩ thường dùng để tự miêu tả mình, mà còn thấy những dụng từ khác, từ những cụm từ thông thường như “Hòa trộn các trường phái”, “Hòa trộn giữa khất thực và ăn chay”, đến những cụm từ trang trọng như “Dung hòa tinh túy”, “dung hợp tinh hoa” đều được sử dụng theo theo phong cách và ý hướng của từng ngòi bút. Tất cả đều có điểm chung là diễn đạt một sự kết hợp nhuần nhị, bổ khuyết cho nhau giữa Bắc tông và Nam tông trong ĐPKSVN.

Nhìn tổng quan hơn, chúng ta thấy rằng các bài viết khi đi vào một cảnh giới khá mới mẻ có tên là Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam để bàn về quá trình hình thành và phát triển của nó đã thể hiện ba việc đầu tiên trong lộ trình khám phá. Việc thứ nhất là dùng thước để đo kích cỡ bên ngoài của nó, cụ thể là tính xem có bao nhiêu cơ sở tịnh xá, bao nhiêu nhân sự; việc thứ hai là dùng đồ họa để xem cơ cấu tổ chức và số lượng nhân sự, diện mạo kiến trúc, mỹ thuật, thờ phượng, pháp phục, kinh điển, nghi lễ; việc thứ ba là dùng các phương pháp luận để xem xét nội dung tư tưởng. Mỗi bài viết đều ít nhiều khởi đề hay dẫn nhập bằng việc nói về nguyên nhân xuất hiện của Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam. Nhìn chung là như vậy, tuy nhiên mỗi một bài viết lại có dụng ngữ, cách phân tích, cảm xúc và điểm nhấn riêng. Có bài viết cho thấy sự khởi phát và hình thành Đạo Phật Khất Sĩ là một yêu cầu bức thiết của một giai đoạn lịch sử ở miền Nam Việt Nam. Giai đoạn bi thương này của người dân đã bộc lộ một khoảng trống mang tính khủng hoảng của thẩm quyền tâm linh, của chuẩn mực đạo lý. Khoảng trống này tạo nên một bầu không khí bức bối ngột ngạt mà người dân phải hít thở hàng ngày. Nó được gia tăng cường độ với những điểm nhấn là những cái mắt thấy tai nghe khiến nhiều người rơi vào trạng thái bàng hoàng, chơi vơi, hụt hẫng. Mặt khác, với cương vị con người, họ sống trong tâm trạng bị xúc phạm nặng nề, thậm chí là bị chà đạp. Hơn lúc nào hết, về phương diện tâm linh đạo đức, người dân cần một luồng sinh khí mới để hít thở, để đủ can đảm sống còntheo đúng ý nghĩa của từ này. Cái cần có là một cái gì đó mới mẻ, tinh khôi, càng thanh khiết, càng thánh thiện càng tốt. Tổ sư Minh Đăng Quang và Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam do Ngài sáng lập đúng thời hợp cách đã đáp ứng tốt cho khoảng trống đó. Người dân hân hoan đón mừng, người nhập đạo xuất gia ngày càng nhiều, cư sĩ mộ pháp quy y ngày càng đông, tịnh xá mọc lên ngày càng dày, bóng y vàng xuất hiện khắp nẻo đường, điểm tô cho bến sông, lũy tre, hương thôn, châu quận.

Ở giai đoạn đầu, tổ chức Đạo Phật Khất Sĩ (ĐPKS) đã mang tính thống kết mạnh mẽ như một ngòi bút đã phát hiện ra qua 114 điều luật mà Tổ sư Minh Đăng Quang ban hành. Kiến trúc, mỹ thuật, thờ phượng, pháp phục, kinh điển, nghi lễ đều là những mảng đề tài mà nhiều ngòi bút quan tâm. Tư tưởng chủ đạo nằm đằng sau những mảng biểu diện ở trên được thể hiện cụ thể qua hai chủ trương: một là tái hiện hay phục hoạt mẫu mực của Tăng-già thời Phật; hai là Việt hóa đạo Phật.

Những đường nét, thể thức, phong cách của ĐPKS trong bản thiết kế để làm khuôn mẫu ban đầu vừa mang tính đột phá, sáng tạo vừa phải có tính rõ ràng và vững chắc. Cây đời vẫn xanh, thực thể ĐPKS trong quá trình phát triển, một mặt cần tiếp tục chuyển biến vươn tới để đáp ứng được những yêu cầu mới của thời đại mới, mặt khác cần bám trụ vững chắc và rõ ràng nơi tinh túy vô ngã vị tha của nhà Phật. Chuyển biến là điều tất yếu, và trở thành một yêu cầu bắt buộc, khi tiếp xúc, giao thoa, hỗ tương tác động với các hệ thống khác. Khi nói tác động dù là tác động ở phương diện nào - nhân sự, kiến trúc, mỹ thuật, thờ phượng, pháp phục, kinh điển, nghi lễ - đều là tác động hai chiều. Thậm chí là có mức độ hòa nhập. Nói chung, ĐPKS đã nhất quán xuyên suốt trong việc sống chung hài hòa thân thiện với các hệ phái khác, với tôn giáo khác, với các tổ chức, đoàn thể dân sự hay Nhà nước.

Như vậy bức tranh của sự chuyển biến không hề đơn giản. Thực tế cho thấy ĐPKS đã, đang và sẽ có những chuyển biến. Có những chuyển biến phù hợp vừa chừng, có cân nhắc, có chủ trương, vừa tăng độ nhu nhuyến để hài hòa, vừa giữ được bản sắc để tỏa sáng, thậm chí còn làm rõ được độ tinh tế thâm sâu của bản sắc. Nhưng, lại có những chuyển biến tùy tiện, tự phát, thậm chí là phản cảm. Xu hướng thực dụng xuất hiện ở mọi nơi, dù là thực dụng trong môi trường kinh tế hay văn hóa, tôn giáo hay nghệ thuật.

Khi miêu tả tư tưởng chủ đạo những ngòi bút trong chủ đề này, vô tình hay hữu ý, sáng tạo ra những cụm từ mới mẻ, cụ thể như cụm từ “đức tin vô ngã”. Vô ngã là cống hiến đỉnh cách của Phật giáo vào nền triết học, đạo học của nhân loại. Tuy nhiên, vô ngã là một chân lý khó lĩnh hội vì phản xạ phản kháng hay phản xạ tự vệ cố hữu của con người. Sự khó lĩnh hội còn xuất hiện khi đặt vô ngã vào giáo lý luân hồi chuyển kiếp, cho rằng một sinh linh di chuyển từ kiếp này sang kiếp khác. Vì vậy trước khi lĩnh hội thấu triệt hoàn toàn – có thể gọi là thể nhập – thì hành giả của giáo lý vô ngã phải sống vô ngã với sự hỗ trợ của đức tin. Và cụm từ “đức tin vô ngã” được xây dựng.

Về phương diện phát triển địa bàn hành hóa, khá nổi trội là các bài viết về những cơ sở và địa phương hoằng hóa cụ thể của PGKS như Úc Đại Lợi, Lào, Huế, Tây Nguyên[44]. Cả bốn nơi đều có một mẫu số chung: Thuận lợi ở bước đầu khai phá, định hình ở những bước duy trì, và đang cần chuyển biến về chất để phát triển bền vững. Chuyển biến về chất phải được hiểu cho đúng là nâng cao về chất; chất đây chỉ cho phẩm chất của nhân sự, của nội dung hoằng hóa, của cơ sở. Chuyển biến về chất là một điều cần nhận được sự quan tâm từ nhiều phía. Sự quan tâm được đặt trên nền tảng là các mối quan hệ. Cụ thể là mối liên hệ với hàng ngũ lãnh đạo tiêu biểu của Khất sĩ, mối liên hệ với các cơ quan đoàn thể dân sự hay Nhà nước, với các hệ phái tông môn hay đoàn thể tôn giáo bạn. Bốn bài viết về bốn địa phương đều khơi gợi lên điểm nhấn là làm thế nào để thắt chặt hơn nữa mối liên hệ đồng môn và tạo tính nhất quán trong các mối liên hệ khác. Cấp lãnh đạo tiêu biểu của Phật giáo Khất sĩ cần quan tâm hơn nữa đối với bốn trường hợp trên, vạch ra những chủ trương và giúp đỡ triển khai những chủ trương đó.

CHỦ ĐỀ 4: HỆ PHÁI KHẤT SĨ VÀ SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Chủ đề này có 15 bài, cho chúng ta thấy một bức tranh khá toàn cảnh với nhiều sắc thái và giai điệu. Nếu lấy tính hàn lâm khoa học làm điểm xuất phát, chúng ta thấy có những trang viết trình bày ngọn nguồn của thuật ngữ Khất sĩ một cách chuyên sâu với những trích dẫn bài bản từ văn điển Phật giáo nói chung đến tác phẩm Chơn lý nói riêng. Sau điểm xuất phát đó là những câu viết truyền đạt cảm xúc, từ đơn sơ đến sâu đậm. Lại có những đánh giá tích cực dành cho Hệ phái Khất sĩ bởi những ngòi bút có thẩm quyền về phương diện học thuật, nghiên cứu; hay thẩm quyền về quản lý nhà nước trên mặt an ninh xã hội và tôn giáo.

Những đánh giá tích cực tựu trung gồm sáu điểm:

1. Tính cách hòa hợp xuyên suốt của hệ thống Khất sĩ vào sự nghiệp chung của đạo pháp và dân tộc từ thời dựng lập tông phong trải qua các nền Cộng hòa cho đến ngày nay. Một trong những đỉnh cao là góp phần quan trọng sáng lập nên Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đưa khát vọng thống nhất của Phật giáo Việt Nam đến trạng thái vinh quang của sự thống nhất cao nhất, trọn vẹn nhất.

2. Tính cách trong sáng trong hệ thống tư tưởng thể hiện qua ý nghĩa mang tính nguyên lý, bao trùm mọi đối tượng mọi sinh thể, xuyên suốt qua mọi thời gian của khái niệm Khất sĩ.

3. Tính cách chân tu, phá ngã, phá chấp, phá mê tín dị đoan, thể hiện qua đời sống đơn giản thanh khiết của vị sư Khất sĩ. Cụ thể, những vị Khất sĩ thời kỳ đầu du phương khất thực, không sở hữu tài sản, không cất giữ tiền bạc.

4. Tính cách sáng tạo, thể hiện qua việc phối hợp nhịp nhàng giữa những cái sẵn có và những nét canh tân, giữa Nguyên thủy và Đại thừa, giữa văn hóa bác học và văn hóa dân gian.

5. Tính khế hợp và khả năng cứu độ. Tính khế hợp ở đây là lấp được khoảng trống đạo đức, đáp ứng được nhu cầu về một điểm tựa tinh thần, rải xuống những giọt cam lồ hóa giải bầu không khí nhiệt não nhiễu nhương bức bối. Xoa dịu và góp phần tích cực hóa giải thực trạng đau thương mà người dân miền Nam Việt Nam trực tiếp hay gián tiếp phải chịu đựng. Khả năng cứu độ thể hiện qua số người kính ngưỡng theo về, số người ủng hộ và có thiện cảm. Khả năng cứu độ còn thể hiện qua sức lan tỏa từ làng này qua làng khác, tỉnh này qua tỉnh khác, và khắp các tỉnh thành phía bên này sông Bến Hải.

6. Tính hòa hợp nội bộ. Đây là một phẩm chất có ngay từ điểm xuất phát, từ giai đoạn đầu của việc khai tông lập giáo. Ở giai đoạn kế tiếp việc kết nối có lỏng lẻo phần nào trong những khoảng thời gian ác liệt của chiến tranh, khi phương tiện giao thông và các phương tiện thông tin với nhau bị gián đoạn. Đến thời cả nước bừng lên xây dựng, thời kỳ giao hòa giữa các tổ chức, cơ quan, đoàn thể thì phẩm chất này của vị Khất sĩ lại dần dần tái hiện rõ nét và càng lúc càng vững chắc.

Ngoài những đánh giá tích cực còn có những ngòi bút, nhẹ nhàng, nhưng vẫn nêu lên một vấn đề khá tế nhị: Tính tông truyền. Cụ thể là vấn đề Tổ sư Minh Đăng Quang thọ giới có như pháp như luật phù hợp với Tỳ-ni tạng hay không. Hầu hết đều có cái nhìn công tâm, khách quan và tích cực. Song song với vấn đề tông truyền, những hạn chế khác của hệ thống Khất sĩ cũng được nêu lên liên quan đến giới luật, liên quan đến đạo đức, bằng cấp, làm kinh tế, gìn giữ nét đặc thù[45].

Định hướng tương lai vẫn là một trong những mảng quan trọng nhất khi bàn thảo về một thực thể sống động như Hệ phái Khất sĩ Việt Nam. Có ba bài viết gợi mở hay đề nghị liên quan đến định hướng tương lai[46], thể hiện mối quan tâm hay thậm chí là sự trăn trở đối với sự nghiệp chung của dân tộc, của Phật giáo Việt Nam, nói chung và với Hệ phái Khất sĩ, một hệ phái nhiệt tâm và mạnh mẽ trong việc làm cho hài hòa và Việt hóa nền Phật giáo nước nhà.

Định hướng tương lai được cụ thể bằng việc tăng cường phẩm chất cho đội ngũ nhân sự Khất sĩ, chuyên môn hóa theo khung 13 ban, ngành, viện của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trong đó, Tăng sự, Hoằng pháp, Giáo dục, Truyền thông và Văn hóa được chú trọng. Bên cạnh việc thành lập các lớp chuyên ngành liên quan mật thiết với Khất sĩ là việc chuẩn định và phong phú hóa nội dung giảng dạy. Để nâng cao tác dụng của giáo dục thì từng bước nên thành lập các cơ sở bảo tồn bảo tàng, song song với việc tập huấn nâng cao kỹ thuật truyền thông, đặc biệt là truyền thông liên quan đến hoạt động tu học và hoạt động văn hóa xã hội.  

Các ngòi bút ở chủ đề 4 còn nêu lên việc mở rộng sự nghiệp hoằng pháp, phục hoạt hạnh khất thực và chú trọng hơn nữa việc tấn tu thiền định. Mục tiêu hướng đến là giữ gìn bản sắc, phát huy tinh hoa, làm ích đạo đẹp đời, phục vụ xã hội nhân sinh.

Quả thật, khất thực, tu thiền và tinh thần cầu học-dạy trong mọi duyên cảnh là ba mấu chốt cần phải quan tâm và thực hành đúng mức, nếu hệ thống Khất sĩ Minh Đăng Quang còn muốn giữ gìn bản sắc, giữ gìn cốt cách của mình.

LỜI KẾT

Để phát triển nhịp nhàng với các dân tộc, các quốc gia trên thế giới ngày nay, chúng tacần lắm những điều mang tính hội nhập, hài hòa với bảng giá trị chung của thế giới. Đó là xu hướng kinh tế thị trường, thuận theo dòng chủ lưu của những giá trị mang tính toàn cầu. Vì nhu cầu hội nhập và xu hướng uốn mình theo dòng chủ lưu mạnh quá nên những cái mang tính địa phương, tính riêng có, tính đơn biệt hay thiểu số thường được nhìn với cái nhìn lướt qua và thầm nhủ trong lòng “Không có cũng được”. Kết quả phổ biến là hầu hết mọi ánh mắt đều dồn về cái gì có tính thế giới, cái gì có tính toàn cầu, cái có tính đa số. Và, yên tâm với toan tính của mình vì đa số thì thắng thiểu số, mà thắng thì ai mà chẳng thích. Lật ngược vấn đề lại, chúng ta thấy rằng hòa hợp ở mức độ cần hòa hợp, vượt qua mức độ đó thì trở thành hòa tan và mất hút như một đơn vị sản phẩm công nghiệp cùng với hàng tỷ đơn vị khác đang chạy cuốn phăng theo băng chuyền của dòng cung ứng toàn cầu. Nói cách khác, đó là tình trạng hay đúng hơn là đang tiến tới tình trạng mất dần đi những yếu tố, những giá trị để làm nên bản vị, làm nên căn cước Việt Nam.

Nói cách khác, khi cần trưng ra cái gì đó để giới thiệu cho bạn bè năm châu, người Việt có thể trưng ra cái có vẻ là tiên tiến nhất, mới mẻ nhất, toàn cầu nhất, cái metro chẳng hạn, đài phun nước theo nhạc chẳng hạn, cái siêu thị to đùng chẳng hạn. Trưng ra rồi người Việt mới giật mình, nhận ra rằng người bạn quốc tế không biểu lộ cảm hứng. Nếu có một cái gì đó để người Việt mình có thể trưng ra đúng nghĩa nhất của từ Người-Việt-trưng-ra thì cái đó cần mang tính riêng có. Phật giáo Việt Nam, hẹp hơn là Khất sĩ Việt Nam có thể được xem là một yếu tố, một ứng viên nhiều tiềm năng đã, đang và sẽ tiếp tục đồng hành cùng dân tộc với những nét độc đáo và đặc sắc của riêng mình. Nói đúng hơn là Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam gắn bó khăng khít vận mạng với vận mạng của dân tộc Việt Nam.

TT.TS. Minh Thành

Giáo phẩm Hệ phái

Phó ban Tổ chức Hội thảo

 


[1] Xem Hành Vân, “Cần có một tiểu sử hoàn chỉnh về Đức Tổ sư Minh Đăng Quang”.

[2]TN. Hương Liên, “Cuộc đời và đạo nghiệp của Tổ sư Minh Đăng Quang”.

[3] PGS. TS. Trần Hồng Liên, “Tấm gương đạo đức Tổ sư Minh Đăng Quang, Người khai sáng Hệ phái Khất sĩ Phật giáo Việt Nam”.

[4] PGS. TS. Trần Hồng Liên, Ngô Khắc Tài, Hành Vân.

[5]Ngô Khắc Tài, “Đường đến với Chơn lý trở thành Khất sĩ của Tổ sư Minh Đăng Quang”.

[6]Hành Vân, bài đã dẫn.

[7]Trần Hồng Liên, bài đã dẫn.

[8] Hành Vân, bài đã dẫn.

[9] Hành Vân, bài đã dẫn.

[10] Xem TT.TS. Thích Đồng Bổn, “Nét thuần Việt ở một Hệ phái Phật giáo Việt Nam”.

[11] PGS. TS. Phan Thị Thu Hiền, “Sự tích hợp Nam tông và Bắc tông trong giáo lý của Phật giáo Khất sĩ qua bộ Chơn lý của Tổ sư Minh Đăng Quang”.

[12] TT. TS. Thích Giác Dũng, “Tổ sư Minh Đăng Quang đối với Tứ y pháp”; Khất sĩ Minh Bình, “Giới luật Khất sĩ”.

[13] TT. TS. Thích Nguyên Thành, “Ý nghĩa của sống chung trong giáo lý của Tổ sư Minh Đăng Quang”.

[14]NS.Tuyết Liên, “Tinh thần Trung đạo trong bộ Chơn lý”.

[15]NT.Hiếu Liên, “Tư tưởng Phật học của Tổ sư Minh Đăng Quang trong bộ Chơn lý”.

[16] TKN. Phương Liên, “Đạo Phật Khất Sĩ VN với truyền thống khất thực’”.

[17]TT. Giác Nhuận, “Đường lối hành trì của Tổ sư Minh Đăng Quang”.

[18]TKN. Liên Hiếu, “Tư tưởng Thiền Phật giáo Nguyên thủy trong Chơn lý Tổ sư Minh Đăng Quang”.

[19]Nguyễn Hữu Việt, “Tìm hiểu tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy trong bộ Chơn lý”.

[20]ThS. Trương Ngọc Huỳnh, “Vài nét về vấn đề giáo dục trong Hệ phái”.

[21]ĐĐ. TS. Minh Liên, “Giáo dục Phật giáo Khất sĩ: Từ truyền thống đến hiện đại”.

[22] PGS. TS. Phan Thị Thu Hiền, “Sự tích hợp Nam tông và Bắc tông trong giáo lý của Phật giáo Khất sĩ qua bộ Chơn lý của Tổ sư Minh Đăng Quang”.

[23]TT. Giác Nhuận, “Đường lối hành trì của Tổ sư Minh Đăng Quang”.

[24]TKN. Liên Vinh, “Những cống hiến của Tổ sư Minh Đăng Quang trong lịch sử Phật giáo hiện đại”.

[25] TKN. Phương Liên, “Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam với truyền thống khất thực”.

[26]NCV. Nguyễn Văn Quý, “Tư tưởng Tịnh độ trong ‘Nghi thức tụng niệm’ của Hệ phái Khất sĩ”.

[27]Hạnh Thường, “Khất sĩ và lý duyên sinh”.

[28]TT.TS. Thích Nguyên Thành, “Ý nghĩa của ‘Sống chung’ trong giáo lý của Tổ sư Minh Đăng Quang”.

[29]Hạnh Thường, bài đã dẫn.

[30]Đạo Uyển, Từ điển Phật học.

[31] ThS. Trương Ngọc Quỳnh, “Vài nét về vấn đề giáo dục trong Hệ phái Khất sĩ”.

[32] NS. TS. Tuệ Liên, “Nghiên cứu tư tưởng Phật tánh trong Chơn lý của Đức Tổ sư Minh Đăng Quang”.

[33]PGS. TS. Trịnh Sâm, “Đặc tính Thủy trong ứng xử Phật giáo của Tổ sư Minh Đăng Quang”.

[34]SC. Thoại Liên, “Tinh thần khế lý, khế cơ trong Chơn lý của Tổ sư Minh Đăng Quang”.

[35] HT. Thích Thiện Siêu.

[36]TK. Minh Điệp, “Ý nghĩa cách dùng từ trong một số quyển Chơn lý”.

[37]SC. Thoại Liên, bài đã dẫn.

[38]PGS. TS. Trịnh Sâm, bài đã dẫn.

[39]PGS. TS. Phan Thị Thu Hiền, bài đã dẫn.

[40]HT. Thích Giác Thuận, “Vài nét về nghi lễ của Hệ phái Khất sĩ”.

[41]ThS. Nguyễn Trung Toàn, “Nghi lễ Khất sĩ và truyền thống Phật giáo”.

[42]NCV. Nguyễn Văn Quý, “Tư tưởng Tịnh độ trong ‘Nghi thức tụng niệm’ của Hệ phái Khất sĩ”.

[43]SC. TS. Liên Trí, “Pháp tu Quan Thế Âm theo quan điểm của Tổ sư Minh Đăng Quang”.

[44] TT. TS. Thích Giác Duyên, “Hệ phái Khất sĩ với tín đồ dân tộc thiểu số Tây Nguyên”; ThS. Lê Thọ Quốc, “Phật giáo Khất sĩ ở Thừa Thiên – Huế: Quá trình hình thành và phát triển”; Một Phật tử tại Úc, “Phật giáo Khất sĩ tại nước Úc: Những thành tựu và tương lai từ cái nhìn của một Phật tử tại gia”; NCS. Nguyễn Văn Thoàn, “Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam ở Lào (Trường hợp Tịnh xá Ngọc Tâm)”.

[45] TS. Nguyễn Ngọc Quỳnh và TS. Nguyễn Thị Quế Hương, “Hệ phái Khất Sĩ trước vận hội mới”.

[46]ThS. Nguyễn Văn Thanh, Bùi Hữu Thành và Nguyên Cẩn.

    Chia sẻ với thân hữu:
    In bài viết:

Các bài viết liên quan