CHÀO MỪNG QUÝ VỊ ĐÃ GHÉ THĂM TRANG NHÀ. CHÚC QUÝ VỊ AN VUI VỚI PHÁP BẢO CAO QUÝ !

Những giá trị trong giáo lý của Hệ phái Khất sĩ cho một xã hội tốt đẹp

1. Khái quát chung về một xã hội tốt đẹp

Thật khó mà đặt ra một tiêu chuẩn chung cho mô hình lý tưởng của xã hội và đó chỉ có thể là công việc của các nhà xã hội học chuyên nghiên cứu thâm sâu về xã hội. Tuy nhiên, dựa vào nhu cầu hạnh phúc của con người, xin tạm phác thảo một vài vấn đề cơ bản, tạm xem như là một hình mẫu cho đời sống tập thể của xã hội loài người. Mô hình lý tưởng để gọi là hình mẫu cho xã hội loài người ít nhất phải bao gồm bốn vấn đề: Tình thương, bình đẳng, tinh thần tập thể và con đường thực hiện.

Sinh ra trong cuộc đời, mỗi người đều là một tế bào của xã hội. Dù cho đó là xã hội phương Tây, phương Đông, dù cho đó là xã hội châu Phi, châu Mỹ, nhìn chung cũng đều là những phần tử của xã hội loài người. Cho nên, mọi người trong xã hội phải biết đặt tình thương cho nhau, không phân biệt màu da chủng tộc mà xem nhau như những người anh em dưới mái nhà chung: Trái đất. Tình thương này phải xuất phát từ tấm lòng cao cả. Một tấm lòng mong muốn mọi người trong xã hội đều được hạnh phúc như nhau. Mỗi quốc gia phải biết hỗ trợ nhau về kinh tế, giáo dục và y khoa. Các nước phát triển và đang phát triển chăm lo cho các quốc gia còn nghèo nàn, lạc hậu để đời sống người dân ở đó được ổn định hơn. Đặc biệt, thành quả của khoa học là sự phát hiện những quy luật tự nhiên do con người nghiên cứu cho nên thành quả đó phải được ứng dụng chung cho lợi ích của con người. Nó là tài sản không của riêng ai.

Bình đẳng có thể xem là điều công bằng của xã hội. Trong tinh thần làm việc, mọi người đều phải tham gia lao động để tạo ra của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu chung nên mỗi người đều có một giá trị nhất định. Sự bình đẳng ở đây là tiếng nói của mỗi cá nhân. Mỗi người tham gia đều bình đẳng về thời gian làm việc, mức lương phù hợp với khả năng làm việc và hỗ trợ cho người không còn khả năng làm việc nữa. Bình đẳng tuyệt đối về giai cấp và giới tính. Một tập thể công bằng không thể coi thường người có giai cấp thấp và tôn trọng người ở giai cấp cao. Càng không thể là “trọng nam khinh nữ” như vài giai đoạn trong lịch sử nhân loại đã trải qua áp đặt người phụ nữ vào con đường đau khổ và bế tắc. Vì thực tế trong lao động, không hẳn người ở giai cấp thấp hay người phụ nữ lại không đóng góp hữu ích cho xã hội. Vấn đề không phụ thuộc ở giai cấp hay giới tính mà vấn đề là thái độ và khả năng làm việc như thế nào. Trong tập thể, không cần biết người đó là ai nhưng những gì người đó thể hiện sẽ định nghĩa con người của họ.

Nghĩa vụ của cá nhân là bao giờ cũng phải tôn trọng tập thể và chỉ có thể đóng góp ý kiến để xây dựng chứ không thể lấy ý kiến áp đặt vào tập thể. Tập thể là một tổ chức đại diện cho sự đoàn kết vừa thể hiện sự hưng suy vừa là điểm tựa của mỗi cá nhân. Cho nên, mỗi cá nhân phải biết tôn trọng và phục tùng tập thể. Con người ai cũng có tri thức riêng cho nên nhận định của mỗi người đều khác biệt nhau trong cùng một vấn đề. Đó là chưa nói nhận định của cá nhân thường hay bị chi phối bởi cảm tình và cảm tính làm cho nhận định thiếu khách quan. Đây chính là lúc phải đặt quyết định của tập thể làm quyết định sau cùng.

Trước tiên để thực hiện những mục tiêu trên mọi cá nhân cần nhất phải hoàn thiện về đạo đức. Cần phải tôn trọng và yêu thương sự sống từ con người cho đến thiên nhiên. Nếu chỉ biết yêu thương con người mà không biết yêu thương thiên nhiên cũng chưa đủ. Vì nếu chỉ đem thiên nhiên phục vụ cho lợi ích của con người sẽ dẫn đến sự hủy hoại thiên nhiên, làm ảnh hưởng môi trường sống và như vậy ảnh hưởng đến cuộc sống con người.

Sống với tập thể phải biết đặt lợi ích của tập thể lên hàng đầu. Chúng ta nên biết tập thể đặt ra là vì nhu cầu chung nên lợi ích của tập thể cũng là lợi ích của mỗi cá nhân trong đó. Phải biết kế thừa và phát huy thành quả của các thế hệ đi trước và truyền thừa những thành quả đó cho thế hệ mai sau. Đây là điều quan trọng để xây dựng tập thể đoàn kết và vững mạnh. Mỗi quốc gia đều có phạm vi riêng về vấn đề dân tộc nhưng vẫn có thể áp dụng hình mẫu này để tiến đến mục tiêu chung là đoàn kết mọi dân tộc trên toàn thế giới, cùng nhau xây dựng đoàn thể thống nhất đi đến mục tiêu chung là đoàn kết và hạnh phúc cho xã hội loài người.

Vậy mà mô hình tuyệt vời đó đã được sáng lập và thực hành suốt 26 thế kỷ qua từ khi thành lập và truyền thừa cho đến tận ngày nay của đoàn thể Phật giáo. Kế thừa con đường cao đẹp đó, giá trị trong giáo lý của Hệ phái Khất sĩ hoàn toàn có thể mang đến mọi điều tốt đẹp cho xã hội.

2. Những giá trị trong giáo lý của Hệ phái Khất sĩ áp dụng cho một xã hội tốt đẹp

2.1. Tôn chỉ hành đạo

Với chí nguyện “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp, Tổ sư Minh Đăng Quang đã quyết chí đi theo con đường truyền thống mà Phật Thích-ca đã vạch ra, noi gương Phật Tăng xưa sống đời Phạm hạnh của một “du phương Khất sĩ”. Tuy nhiên, từ nguồn suối tâm linh này, Ngài tiếp tục khơi thông nguồn mạch, thuận duyên hành đạo trong cộng đồng dân tộc Việt, để khai sáng ra Hệ phái Phật giáo Khất sĩ Việt Nam. Nghĩa là mặc dù cách tu học theo lối “Khất sĩ” đã có từ thời Phật Thích-ca còn tại thế, nhưng trong cách tu học của Hệ phái do Tổ sư sáng lập vẫn có “một sắc thái Phật giáo đặc thù, biệt truyền tại miền Nam Việt Nam.

Về mục đích của sự tu tập theo lối Khất sĩ, Tổ sư giải thích đại ý như sau: “Sự xin ăn không phải là hèn kém, chẳng qua việc ấy nhắc nhở người tu hành phải biết nhẫn nhục và chịu đựng những thử thách, để lòng tự ái, dục vọng... chóng tiêu dần. Đồng thời qua đó, nó còn giúp người tu luyện trí, tạo cho mình những niềm lạc quan siêu thoát hơn. Về phần người bố thí, qua hình ảnh của người Khất sĩ, họ sẽ hiểu được phần nào là an vui thanh sạch, là trầm luân khổ ải để sớm thức tỉnh, tìm đến con đường giải thoát phiền muộn. Tóm lại, đối với người tu, nếu không làm Khất sĩ để vừa hóa trai, vừa tu học thì không dễ gì đạt được đạo quả vô thượng.[1]

Giáo lý Hệ phái Khất sĩ bắt nguồn từ các tạng kinh của Phật giáo chính thống, điểm nhấn là đạo đức làm người, căn bản của hành trạng giáo hóa và tự trao dồi phẩm hạnh của mỗi người. Tổ sư Minh đăng Quang truyền dạy triết lý sống gần gũi với dân trí và văn hóa thuần Việt, nhất là Nam bộ thời bấy giờ.

Mỗi người phải biết chữ,

Mỗi người phải thuộc giới,

Mỗi người phải tránh ác,

Mỗi người phải (học đạo) làm thiện.[2]

Hiện nay, xóa mù và phổ cập đã xong, “biết chữ” không chỉ là đọc thông, viết thạo mà là tri thức xã hội, thấu hiểu kinh tạng ngày một sâu sắc hơn để ngộ “Đạo”, ứng xử người với người vị tha, nhân bản hơn.

2.2. Đời sống Tăng sư

Trong quyển Chơn lý “Khất sĩ” (số 11), Tổ sư chỉ dạy về giáo pháp Khất sĩ như sau: “Khất sĩ là học trò khó đi xin ăn để tu học. Khất sĩ là cái sống của chơn lý võ trụ, mà tất cả chúng sanh đều là học trò cả thảy, bởi chúng sanh là cái biết, từ chưa biết đến đang biết, và cái biết sẽ hoàn toàn ngơi nghỉ. Các sự thấy nghe hiểu để đem lại cho cái biết, biết quý báu hơn không biết, có biết mới hết mê lầm chấp trật, khổ sở nạn tai. Từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ trước đến sau, từ chiều đến sáng, mỗi lúc cái biết càng phân biệt, làm việc tích trữ, lớn to và đi tới, làm cho chúng sanh càng ngày càng được thêm sự học hành. Chúng sanh đây là căn thân và chủ thức (là người nhận biết) cho nên cái biết chủ cần phải sống, lớn, ăn, vui, yên và còn mãi mãi. Chính biết là ta, là mục đích của chúng sanh, là chơn lý của cuộc đời, là tinh ba của võ trụ, chính chơn lý hay triết lý mới là môn học thực tế, lợi ít đi ngay đến Niết-bàn, kêu là đạo, là sự học không hai, là cái học của ta, nó ở với ta, nuôi sống cái ta, nó làm ta vậy.[3]

Kinh Không uế nhiễm, đức Phật dạy rằng: Có Tỳ-kheo sống trong rừng, chỉ đi khất thực, mặc y phấn tảo, ở dưới gốc cây, ăn đồ ăn trong bát nhưng nếu với tâm mà ác bất thiện pháp chưa đoạn trừ, vị Tỳ-kheo ấy không đáng được tôn kính. Vì như một cái bát bằng đồng, bên ngoài bóng loáng, đẹp đẽ nhưng bên trong đựng đầy thức ăn hôi thiu, nhơ uế. Đem cái bát này để giữa chợ, mọi người ai cũng thích thú vẻ ngoài của nó nên xúm lại chiêm ngưỡng. Nhưng khi giở bát ai cũng chán chê, dù cho người đói cũng không thèm ăn đồ ô uế đó. Ngược lại, có vị Tỳ-kheo sống ở trong làng, ăn thức ăn do thí chủ cúng, y áo do thí chủ dệt, am cốc do thí chủ xây cất nhưng trong tâm ác bất thiện pháp đã được đoạn diệt. Vị này đáng được cung kính, gần gũi và học pháp. Cũng như một cái bát bằng đồng bên ngoài bóng loáng, bên trong đựng thức ăn thơm ngon, tinh sạch. Đem cái bát này để giữa chợ mọi người thích thú đến xem. Khi giở bát hương thơm đồ ăn bên trong toả ra ngào ngạt đến người đang no cũng muốn ăn thêm.[4]

Khi xưa, thái tử Tất-đạt-đa có trí tuệ cao hơn người thường. Ngài đã học tập hết tất cả các kiến thức tôn giáo thời bấy giờ và ứng dụng hành trì trong thời gian xuất gia. Vậy mà, bỏ 6 năm tu tập vẫn không đưa đến kết quả giải thoát cho Ngài. Ấy là vì các học thuyết đương thời không phải là chánh pháp đưa đến yểm ly, đoạn diệt, chứng đắc Niết-bàn. Cuối cùng, Ngài tự mình tìm ra con đường Trung đạo nên chứng quả Toàn giác sau 49 ngày thiền định dưới cội Bồ-đề.

Trong lần chuyển pháp luân đầu tiên, đức Thế Tôn đã dạy về lối tu này cho 5 anh Kiều Trần Như và trở thành lời xác chứng cho nguồn chánh pháp cao thượng, phải đầy đủ hai góc độ - pháp học và pháp hành. Đó là pháp tu Trung đạo trước khi Ngài dạy về Tứ Diệu Đế: Hỡi này các Tỳ-kheo, có hai cực đoan không đưa đến đoạn tận khổ đau. Sự dể duôi trong dục lạc là thấp hèn, thô bỉ, phàm tục, không xứng phẩm hạnh của bậc Thánh nhơn và vô ích. Sự thiết tha gắn bó trong lối tu khổ hạnh là đau khổ, không xứng phẩm hạnh của bậc Thánh nhơn và vô ích. Từ bỏ cả hai cực đoan ấy, Như Lai đã chứng ngộ con đường Trung đạo, là con đường đem lại nhãn quan và tri kiến đưa đến an tịnh, trí tuệ cao siêu, giác ngộ và Niết-bàn.[5]

Trên bước đường tầm sư học đạo, Tổ sư Minh Đăng Quang đã học tập và thực hành lời dạy này. Sau khi thành Tổ khai sơn Hệ phái Khất sĩ, Ngài đã cụ thể hoá con đường Trung đạo bằng hạnh tu Tứ y pháp:

- Người tu xuất gia chỉ ăn đồ xin mà thôi, nhưng ngày hội, thuyết pháp thì được ăn tại chùa.

- Người tu xuất gia chỉ lượm vải bỏ mà đâu lại thành áo nhưng có ai cúng vải, đồ cũ thì được mặc.

- Người tu xuất gia chỉ ngủ qua đêm dưới gốc cây nhưng có ai cúng cốc lá, một cửa thì được ở.

- Người tu xuất gia chỉ dùng phân uế của bò mà làm thuốc trong khi đau nhưng có ai cúng thuốc đường dầu thì được dùng.

2.3. Cương yếu giới luật

Đức Tổ sư luôn lấy giới luật làm đầu và luôn dạy dỗ các đệ tử phải hành trì giới luật. Thế nên, ngay phần đầu tiên của Luật nghi Khất sĩ, Tổ sư đã ân cần dạy bảo: “Đạo Phật được bảo tồn lâu dài là nhờ giới luật; các Sư được tôn trọng sùng bái là nhờ giới luật; bá tánh được an cư lạc nghiệp, vui hưởng mọi sự lành, cũng nhờ giới luật nữa! Ở xứ nào mà người ta có giữ hạnh, thì dân chúng được bình an, không có tai nạn phiền hà; dầu là nhà Sư Đại thừa ở Tàu, ở Nhật; dầu là Tăng Lạt-ma giáo ở Tây Tạng; dầu là Tỳ-kheo Tiểu thừa ở miền Tích Lan hay Thiên Trước, mọi người đều phải trân trọng giữ giới, và nhờ sự bảo hộ bởi giới lành. Lại cư gia bá tánh cũng thế, không phân biệt là miền Đại thừa hay Tiểu thừa, ai nấy đều phải cần trì giới, giữ hạnh, để sống một cách phải thế, trong sạch và hiền hòa.[6]

Giới luật của Hệ phái Khất sĩ như phần chú thích của Tổ sư trong Luật nghi Khất sĩ, dựa theo Luật Tứ phần của phái Đàm-vô-đức. Bộ Luật được thực hiện triệt để cho từng đối tượng một cách rõ ràng như Tỳ-kheo gồm 250 giới, Tỳ-kheo-ni có 348 giới, Sa-di – Sa-di-ni có 10 giới, cư sĩ có 5 giới. Ngoài ra, Giới Bồ-tát cũng được Tổ sư nói đến với tên gọi là Giới Phật tử.

Việc hành trì giới luật là để thanh lọc thân, khẩu, ý. Khi tam nghiệp thanh tịnh, việc tu hành thiền định và phát triển tuệ giác sẽ được diễn ra thuận tiện. Tổ sư dạy: “Lời nói của người tu ví như hoa sen, việc làm của người tu ví như lá sen, ý niệm của người tu ví như gương sen, cả thảy các pháp đều ở trên cao không trung, và không còn phải ô nhiễm nước bùn theo thế sự.” (Chơn lý “Trên mặt nước”)

2.4. Các pháp tu hành

Trong nếp sống thiền môn của chư Tăng Ni Khất sĩ, thiền định – quán chiếu là một nếp sống không thể thiếu để trau dồi nội lực tịnh hoá tam nghiệp, để trở về với bản tâm thanh tịnh chơn như của chính mình. Chính sự quán chiếu này, Tôn Sư Minh Đăng Quang đã đạt được đạo khi nhìn thấy bọt sóng từng đợt vào ra, tựu tán. Để được như vậy người xuất gia phải là chơn tâm xuất gia cầu đạo giải thoát quyết lòng đạt đạo mới thôi. Muốn thế phải chánh định, diệt trừ vọng niệm, cắt đứt vòng hệ luỵ, cởi trói sợi dây oan nghiệt, trở về với chơn tâm thường trú của chính mình, tìm lại Phật tánh của mình.

Và như vậy, Tổ sư Minh Đăng Quang chủ trương thiền định quán chiếu, vì đó là mục tiêu quan trọng của người xuất gia, có chánh định mới làm chủ được mình mới làm thầy của trời và người, làm chỗ dựa cho bao tâm hồn bị lạc lõng không nơi nương tựa, nương vào Tăng là người thừa kế sự nghiệp của chư Phật ba đời “kế vãng khai lai báo Phật ân đức”, làm rường cột cho ngôi nhà Phật pháp, để đảm bảo cho ngôi nhà Phật pháp trường tồn mãi mãi trên thế gian này.

Định là chánh. Thể của định là võ trụ bao la vô cực. Tướng của định là chơn như không vọng động. Dụng của định là thay đổi tiến hóa, an vui giác ngộ qủa linh thần thông. Lý của định là tự nhiên chơn thật. Thân của định là giới. Trí của định là huệ. Tánh của định là chơn. Còn định là tâm của tất cả chúng sanh hay cũng là sự sống sức mạnh bao gồm tất cả.” (Chơn Lý “Nhập Định”)

 Không bận tâm bởi ngũ dục lục trần mới đạt được định tĩnh ở trong tâm rất cao rất vững, không còn dao động bởi những cám dỗ tầm thường của thế tục, như ngọn đèn vững vàng được bao bọc bởi bóng đèn, ánh sáng toả rạng soi rọi khắp nơi. Thật vậy, hành giả Khất sĩ đầy đủ giới, trang bị giới như áo giáp không sợ bị mũi tên độc của tham sân si, phiền não, nghiệp chướng đâm xuyên phá được, và từ đây bước chân đi du hoá khắp nhân gian gieo hạt giống từ bi, trí tuệ khắp muôn nơi, đấy là hạnh nguyện của một Tỳ-kheo Khất sĩ.[7]

3. Con đường hiện thực hoá tinh hoa giáo lý của Hệ phái Khất sĩ

3.1. Thắt chặt lại tình Thầy – trò

Để kế thừa và phát huy tông môn Hệ phái, người đệ tử cần phải gần gũi chú tâm lắng nghe và tiếp nhận những điều thầy giảng dạy, trao truyền. Đây là vấn đề hết sức quan trọng mà người học trò cần lưu tâm ghi nhớ. Bởi khi hiểu rõ được những lời dạy tâm huyết của thầy, mỗi hành động, lời nói và suy nghĩ mới thể hiện đúng với giáo pháp.

Để tiếp nhận giáo pháp trọn vẹn, chúng ta nên thực hành theo lời Phật dạy qua Kinh Người huấn luyện ngựa. Đại ý bài kinh như sau:

Một lúc nọ, có chàng thanh niên tên Kesi là người huấn luyện ngựa, đi đến yết kiến Thế Tôn và đức Thế Tôn đã hỏi thanh niên Kesi về phương pháp huấn luyện ngựa như thế nào. Được hỏi như thế, thanh niên Kesi đã trả lời: “Bạch Thế Tôn, con thường chia ngựa ra làm bốn loại:

1. Loại được nhiếp phục bằng lời mềm mỏng.

2. Loại được nhiếp phục bằng lời thô ác.

3. Loại được nhiếp phục bằng lời mềm mỏng lẫn thô ác.

4. Loại bất trị, không thể nhiếp phục nổi. Với loại này thì chỉ còn cách đem giết thịt để khỏi mất danh dự cho gia đình thầy của con.

Trả lời xong, Kesi bạch hỏi Phật về phương pháp dạy dỗ hàng môn đệ của Ngài. Bậc Đạo sư đáp rằng, Ngài cũng chia hàng đệ tử ra làm bốn loại:

1. Hạng người được dạy dỗ bằng lời mềm mỏng: Khi được chỉ dạy về các việc thiện của thân, khẩu, ý cùng các quả báo tương ứng ở cõi trời, người, họ liền tinh cần tu tập.

2. Hạng người được dạy dỗ bằng lời cứng rắn: Khi được chỉ dạy về các hành động bất thiện của thân, khẩu, ý, cần nên tránh vì chúng sẽ đưa đến quả báo tương xứng nơi ba đường ác.

3. Hạng người được dạy dỗ bằng lời mềm mỏng lẫn cứng rắn: Bao gồm cả hai lối trên.

4. Hạng người bất trị, không thể dạy dỗ bằng lời mềm mỏng hay cứng rắn, thì đành phải giết đi.

Nghe đến đây, Kesi hốt hoảng hỏi:

– Nhưng bạch Thế Tôn, sát sanh không xứng đáng với Thế Tôn.

– Này chàng trai, trong giáo pháp của Ta, giết đi chỉ có nghĩa là con người này, trong Giới luật của bậc Thánh, bị Như Lai nghĩ rằng không đáng được nói đến, không đáng được giáo giới, bị các vị đồng Phạm hạnh có trí nghĩ rằng không đáng được nói đến, không đáng được giáo giới.[8]

Bài kinh này không những khuyên bậc Sư trưởng cách dạy đạo cho đệ tử mà còn cho hàng đệ tử tri kiến về việc học tập của mình. Để kết nối với Tổ Thầy, chúng ta phải làm một đệ tử ngoan đạo, luôn luôn trở thành hạng người thứ nhất để xứng đáng kế thừa tông môn của mình. Còn nếu như chúng ta trở thành hạng người thứ tư, đó là tự mình đã đoạn mất con đường tu học của mình vậy.

3.2. Nhất quán đường lối tu hành

Trong nếp sống thiền môn của chư Tăng Ni Khất sĩ, thiền định là một pháp môn duy nhất để trau dồi nội lực tịnh hoá tam nghiệp để trở về với bản tâm thanh tịnh chơn như của chính mình. Chính sự thiền định quán chiếu này, đức Tổ sư đã đạt được đạo khi nhìn thấy bọt sóng từng đợt vào ra tụ tán qua pháp chứng “Thuyền Bát-nhã. Để được như vậy, người xuất gia phải có thật tâm cầu giải thoát, quyết lòng đạt đạo mới thôi. Muốn thế, chúng ta phải tu tập chánh định diệt trừ vọng niệm, cắt đứt vòng hệ luỵ, cởi trói sợi dây oan nghiệt, trở về với chơn tâm thường trú của chính mình.

Chính vì lẽ đó, đức Tổ sư chủ trương thiền định quán chiếu vì đó là mục tiêu quan trọng của người xuất gia. Người có chánh định mới làm chủ được mình, mới làm Thầy của Trời và người, làm chỗ dựa cho bao tâm hồn lạc lỏng, không nơi nương tựa; nương vào Tăng là người thừa kế sự nghiệp của chư Phật ba đời “kế vãng khai lai báo Phật ân đức”, làm rường cột cho ngôi nhà Phật pháp, để đảm bảo cho ngôi nhà Phật pháp trường tồn mãi mãi trên thế gian này.

Không bận tâm bởi ngũ dục lục trần mới đạt được định tĩnh ở trong tâm rất cao, rất vững, không còn dao động bởi những cám dỗ tầm thường của thế tục, như ngọn đèn vững vàng được bao bọc bởi bóng đèn, ánh sáng toả rạng soi rọi khắp nơi. Thật vậy, hành giả Khất sĩ đầy đủ giới trang bị giới như áo giáp không sợ bị mũi tên độc của tham sân si, phiền não, nghiệp chướng đâm xuyên phá được và từ đây bước chân đi du hoá khắp nhân gian gieo hạt giống từ bi trí tuệ khắp muôn nơi đấy là hạnh nguyện của một Tỳ-kheo Khất sĩ. Đây là con đường nhất quán mà chúng ta phải quán triệt thật sâu sắc và thực hành trọn đời.

3.3. Trở về hành trì công hạnh của Tổ thầy

Trong lần chuyển pháp luân đầu tiên, đức Thế Tôn đã dạy về một lối tu cho năm anh Kiều Trần Như và trở thành lời xác chứng cho nguồn Chánh pháp cao thượng phải đầy đủ hai góc độ pháp học và pháp hành. Đó là pháp tu Trung đạo, trước khi Ngài dạy về Tứ Diệu đế:Hỡi này các Tỳ-kheo, có hai cực đoan không đưa đến đoạn tận khổ đau. Sự dể duôi trong dục lạc là thấp hèn, thô bỉ, phàm tục, không xứng phẩm hạnh của bậc Thánh nhơn, và vô ích. Sự thiết tha gắn bó trong lối tu khổ hạnh là đau khổ, không xứng phẩm hạnh của bậc Thánh nhơn và vô ích. Từ bỏ cả hai cực đoan ấy, Như Lai đã chứng ngộ con đường Trung đạo, là con đường đem lại nhãn quan và tri kiến đưa đến an tịnh, trí tuệ cao siêu, giác ngộ và Niết-bàn.[9]

Trên bước đường tầm sư học đạo, đức Tổ sư đã học tập và thực hành lời dạy này. Và đức Tổ sư đã ần cần dặn bảo: “Đạo Phật không phải là Phật học hay Phật pháp. Vì Phật pháp là giáo lý giác ngộ, phương tiện tuỳ duyên giáo hoá cho mỗi căn cơ khác nhau. Còn học Phật là kẻ đang học giáo lý của Phật mà chưa thực hành. Trái lại, đạo Phật là sự thực hành để thành Phật, sự tu giống y theo Phật. Con đường ấy là Khất sĩ, là giới luật y bát chơn truyền vậy.[10]

Thế nên, đã học thành tài cần phải bồi dưỡng đức. Đức ở đây là thực hành theo đời sống mẫu mực Tứ Y pháp của Phật và Tổ. Vậy thì trong cuộc đời này, ai dám từ bỏ học vị, chức vụ, “công tác Phật sự” để vào nơi thôn dã núi rừng mà ôm bát đi xin, ngày ăn một bữa, chuyên hành giới luật và thiền định thì cũng đã vô cùng cao thượng. Vì sao? Vì kiến thức của ta đã cao hơn người ít học, mà không giác ngộ lo tu, lại đi ôm chấp học vị, chức phận… như vậy làm sao xứng với mấy chục năm tha phương cầu học. Mục đích cuối cùng là để thành tựu giác ngộ kia mà! Sự giác ngộ có bao giờ đến bằng kiến thức đâu. Sự giác ngộ luôn đến bằng sự hành trì giáo pháp. Thế thì, sau khi đã học hết các trường lớp cao nhất trong xã hội, ta phải biết trở lại lo tu mới đúng hơn hết.

Nếu xét thấy chưa thể phát tâm thực hành cao thượng như thế, ít ra cũng phải biết tham dự các Khoá tu Truyền thống, các Khóa An cư Kiết hạ, thường xuyên đảnh lễ cầu pháp hành nơi chư Tôn đức Tăng Ni đang thọ trì và giữ đúng phẩm hạnh của Tổ Thầy. Chứ lý nào lại đứng trên kiến thức mà xem thường các Ngài, vả lại còn có quan niệm rằng “tông môn Khất sĩ không có tông chỉ và pháp tu rõ ràng”. Thế mới biết, cầu học bên ngoài là sự hướng ngoại lầm lạc và xa rời giáo pháp Khất sĩ lắm vậy.

Nói tóm lại, người xưa dùng đức độ người là chơn thiện, người nay dùng tài mở đạo là phương tiện tuỳ nghi. Các Ngài là gốc rễ để đời sau bám trụ mà vươn dài những cành lá xanh tươi. Chúng ta cần phải bồi dưỡng cả tài lẫn đức mới trở thành người hiền nhân kế thừa Phật pháp. Đã phát tâm cầu học mấy mươi năm, vậy cũng nên phát tâm đem mấy mươi năm đó ra ứng dụng. Hãy thử so sánh, nếu đổi lại trong hai mươi năm học tập với hai mươi năm thực hành Tứ Y pháp, việc nào có ý nghĩa hơn, điều đó chắc ai cũng rõ. Tuy nhiên, tùy theo thời đại mà xem xét phần nào nên làm hơn. Nếu ngày nay chỉ chuyên lo tu hành như xưa, lấy ai mở mang phát triển Hệ phái. Nhưng nếu mải miết học hành, lấy phương tiện công việc làm lẽ sống thì sẽ rời xa đạo pháp. Do đó, những ai mang danh người con Khất sĩ trong thời hiện đại này, cần cân nhắc sao cho pháp học và pháp hành phải được sánh đôi. Có như thế, chúng ta mới phần nào xứng đáng là người thay Phật tiếp Tổ, làm cho đạo Phật sống mãi trên cuộc đời này vậy.

4. Kết luận

Cuộc đời và đạo nghiệp của đức Tổ sư Minh Đăng Quang không bút mực nào có thể diễn tả hết được. Con người sống trên đời đau khổ là do thân, khẩu, ý hành theo nghiệp xấu. Tổ sư đã thuần tịnh tam nghiệp nên Ngài tỏa ra một đạo lực rất uyên thâm và trở thành ngọn đèn chơn lý, soi lối ngàn đời cho chúng ta thấy rõ con đường vào đạo. Kế thừa gia tài Pháp bảo của Tổ thầy, Hệ phái được thành lập và phát triển cho đến nay trải qua biết bao công sức của Tổ sư và các đức Thầy khả kính. Chúng ta cần phải giữ vững lập trường của Hệ phái để làm khuôn mẫu cho đời sau không mất dấu. Nhất là ở đường lối hành trì Tứ Ý pháp và hình thức y bát không cho đoạn tiệt. Tổ dạy rằng: “Không định không có thần thông quả linh, thì con người phải té sa vào nơi vật chất giả dối, nắm níu lấy ác tà loạn vong, chôn nhốt giết hại tâm mình. Cho nên, tâm định thì trí mới huệ, huệ nhiều ít là do định. Định nhiều thì huệ nhiều, định ít thì huệ ít, không định thì không có huệ.[11]

Ngày nay, vật chất quá thịnh hành, con người văn minh nhưng lại đối diện với biết bao đau khổ như chiến tranh, thiên tai, bệnh tật, ô nhiễm môi trường, bạo lực, đồi trụy… Tất cả đều do vật chất mang lại. Nếu không khéo chánh niệm tỉnh giác, chúng ta sẽ bị hoen ố tâm hồn, chạy theo ngũ dục lục trần và tạo nghiệp luân hồi sanh tử. Một người Khất sĩ chân chính phải thoát khỏi vũng lầy của vật chất, cất mình bay nhẹ lên trên tinh thần đạo đức cao đẹp, như hoa sen vượt khỏi bùn nhơ. Lời nói, việc làm và ý niệm đều phải chuẩn mực, đạo đức và phải cao thượng hơn người đời. Đó mới xứng là một nhà Sư không không, trong sạch như hình ảnh của đức Tổ sư ngày nào. Con đường của người xuất gia là đi từ tự lợi đến lợi tha. Tổ sư đã hy sinh một đời cho đạo pháp, chúng ta cũng phải có tinh thần dấn thân phục vụ như Ngài.

Đây là những giá trị cao quý trong giáo lý của Hệ phái Khất sĩ Việt Nam có thể áp dụng vào xã hội và mang đến cho xã hội một nếp sống tốt đẹp, hiền hoà tiến đến chân, thiện, mỹ cho con người.

 

[1] Tóm tắt theo Huỳnh Minh, Kiến Hòa xưa, Nxb. Thanh niên, 2001, tr. 200-201.

[2] Theo bài viết của Hệ phái Khất sĩ: “Sơ lược tiểu sử tổ sư Minh Đăng Quang” trên báo Giáo ngộ online đăng ngày 23/2/2019.

[3] Tổ sư Minh Đăng Quang, Chơn lý “Khất sĩ”, Hà Nội, Nxb. Tôn giáo, 2009.

[4] Kinh Không uế nhiễm, thuộc Kinh Trung bộ, tập I, HT. Thích Minh Châu dịch Việt, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, 1992.

[5] Kinh Chuyển Pháp luân, thuộc Kinh Tương ưng b, HT. Thích Minh Châu dịch Việt, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, 1992.

[6] Tổ sư Minh Đăng Quang, Luật nghi Khất sĩ, Hà Nội, Nxb. Tôn giáo, 2009.

[7] NS. Hòa Liên, Tham luận “Nội dung tu tập và phương pháp hành trì của Hệ phái Khất sĩ, 2016.

[8] Kinh Người huấn luyện ngựa, thuộc Kinh Trung bộ, HT. Thích Minh Châu dịch Việt, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, 1992.

[9] Kinh Chuyển Pháp luân, thuộc Kinh Tương ưng b, HT. Thích Minh Châu dịch Việt.

[10] Tổ sư Minh Đăng Quang, Chơn lý “Đạo Phật Khất Sĩ”.

[11] Tổ sư Minh Đăng Quang, Chơn lý, tập I, Hà Nội, NXB. Tôn giáo, 2009, tr. 341.

    Chia sẻ với thân hữu:
    In bài viết:

Các bài viết liên quan