Tư tưởng Phật học của Tổ sư Minh Đăng Quang trong bộ Chơn lý
- Minh Mẫn
- | Thứ Bảy, 02:20 31-12-2016
- | Lượt xem: 2580
I. MỞ ĐẦU
Dân tộc ta thừa hưởng nhiều tư tưởng triết lý tôn giáo cũng như chính trị và văn học của nhân loại, từ tư tưởng Nho gia, Đạo giáo đến Phật học. Suốt thời kỳ dài “Tam giáo đồng nguyên” đã có sự hòa hợp nhuần nhuyễn để dân tộc ta có một nếp sống hài hòa, từ văn hóa đến kiến trúc, nghi lễ, chính trị, giáo dục, giao tế... Vì thế, những di tích còn để lại ngày nay ở các tỉnh phía Bắc và miền Trung, mỗi làng đều có đình, miếu và chùa trong một quần thể làng xã.
Nét đẹp văn hóa ấy kéo dài gần hai ngàn năm, đến khi Pháp thuộc, nền văn hóa mới du nhập vào đất nước, một phần thành thị bị pha loãng bởi nền văn hóa mới này. Nền văn hóa mới được tuổi trẻ đón nhận với sự háo hức và họ như được cởi trói từ tư tưởng đến văn hóa, giáo dục… Chính vì thế, hình dạng chữ La-tinh cũng dễ được chấp nhận thay thế cổ ngữ, được gọi là quốc ngữ. Từ những thay đổi nhanh chóng đó, Nho - Thích - Lão cũng bị lùi dần. Hình ảnh ông đồ với áo dài khăn xếp chỉ xuất hiện mỗi khi làng mở hội, cảnh nhàn tản vui thú điền viên của Tiên gia Lão giáo cũng rút sâu vào non cao núi thẳm, còn Phật giáo thì các nhà sư cũng chỉ xuất hiện nơi ma chay của xóm làng. Người dân nơi đô thị ít biết đến những hình thái xa xưa, nếu thỉnh thoảng xuất hiện, thị dân xem đó là nét văn hóa lỗi thời lạc hậu. Do sự thờ ơ của xã hội mới, các chùa ít được tuổi trẻ xuất gia kế thừa làm “điệu”, “chú tiểu”, các nhà sư phải lập gia thất để có con kế thừa giữ chùa, thờ Phật. Ngoài ma chay đám tiệc, các nhà sư còn phải tự túc kinh tế trên các thửa ruộng làng quê. Do vậy, chư Tăng không còn thời giờ chuyên sâu vào giáo lý và hành trì tu tập nên công việc hoằng pháp đã gián đoạn một thời gian khá dài, người dân gọi là Phật tử trên danh nghĩa, không ai biết đến giáo lý và lịch sử nhà Phật. Họ duy trì tín ngưỡng theo tập quán ông bà, họ chỉ biết đạo Phật là tôn giáo đáp ứng cho kẻ quá cố và một tín ngưỡng dự phòng cho kiếp sau.
II. TỔNG QUAN VỀ HỆ PHÁI KHẤT SĨ
1. Bối cảnh lịch sử
a) Thời Bắc thuộc
Qua những thời kỳ thịnh suy của Phật giáo Việt Nam gắn liền với vận mệnh dân tộc, chúng ta có thể thấy Phật giáo hưng thịnh vào đầu thế kỷ thứ I, khi trung tâm Luy Lâu có mặt tại Giao Chỉ trước cả trung tâm Bành Thành và Lạc Dương ở Trung Quốc.
Trong ba trung tâm Phật giáo đời Hán, trung tâm Luy Lâu là trung tâm có tổ chức Tăng đoàn sớm nhất. Trong sách Lý hoặc luận viết về những tệ trạng của giới Tăng sĩ Giao Châu vào hạ bán thế kỷ thứ hai, Mâu Tử viết: “Sa-môn ngày nay có kẻ lại thích uống rượu ngon, có khi có vợ con, biết cất giữ tiền bạc, của quý, lại chuyên môn lừa dối”[1]. Như vậy, ta biết rằng Tăng đoàn Giao Châu thời đó đã khá đông đảo mới có nhiều tệ đoan như vậy. Danh từ “Sa-môn ngày nay” mà Mâu Tử dùng không thể để chỉ một số ít Tăng sĩ Ấn Ðộ có mặt tại Giao Châu, mà là chỉ số đông Tăng sĩ Giao Châu vậy[2].
Phật giáo được truyền từ Ấn Độ vào nước ta thời Hùng Vương, khoảng năm 300 trước Tây lịch, và đoàn hoằng pháp của vua A-dục (Asoka) do Ngài Sona và Uttara dẫn đầu là những người đầu tiên đem Phật giáo vào nước Văn Lang thời Vua Hùng (tức là lúc Phật Quang truyền nón gậy cho Đồng Tử vào thời Hùng Vương; nếu tính từ lúc Khương Tăng Hội, Mâu Bác truyền vào thì đầu thế kỷ dương lịch).
Việt Nam lúc bấy giờ bị sáp nhập vào phương Bắc, được đặt làm quận Giao Chỉ, một trong những quận đời Hán. Tuy ở cách xa, văn hóa, văn tự và một số mặt trong cuộc sống vẫn bị giao thoa với người Hán. Một số tập tục thế gian vẫn còn ảnh hưởng, do vậy tôn giáo cũng không tránh khỏi chịu ảnh hưởng về nghi lễ, trang phục, nếp sống, sinh hoạt...
Cho dù thế nào, việc trang phục của tu sĩ Phật giáo Việt Nam cũng mang nét dân tộc thuần túy, ngay cả kinh sách cũng dùng chữ Nho hoặc chữ Nôm mà không sử dụng Sanskrit hoặc Pali, ngoại trừ các sư Nam tông. Theo sách sử Theravada, Nam tông có mặt tại Việt Nam từ thế kỷ thứ III trước công nguyên, nhưng theo Thích Huệ Giáo, Phật giáo Nam tông Việt Nam bắt nguồn từ Campuchia ở thập niên 1930, do một bác sĩ chuyên ngành thú y, thế danh Lê Văn Giảng làm việc và sinh sống, xuất gia tu học tại Campuchia, sau khi về nước đã trở thành một vị sư (Hòa thượng Hộ Tông) theo truyền thống Nam tông và truyền bá rộng rãi Phật giáo Nam tông. Có thể xem Ngài là người đặt nền móng ban đầu cho Phật giáo Nam tông Việt Nam và phát triển đến nay, bên cạnh sự nỗ lực của một số Tăng sĩ, cư sĩ Nam tông Việt Nam[3].
Cũng từ tập quán thuần Việt và ít nhiều ảnh hưởng Trung Quốc, kinh tụng bằng chữ Hán, áo mão y hậu cũng lai Hán, tập tục cúng sao giải hạn, vàng mã, trai đàn chẩn tế cũng từ Trung Quốc mà có. Trước kia một số vị trang phục y hậu, áo mão thêu thùa gấm vóc như hoàng bào của vua và một số tiết tấu nhạc lễ ảnh hưởng nhạc cung đình.
Tuy Bắc thuộc, nhưng Phật giáo vẫn duy trì và phát triển nhờ Phật giáo Trung Quốc thịnh hành. Sau này vì bị nhà Minh tịch thu kinh sách, luận sớ, nên Phật giáo Việt Nam đã bị thất thoát nhiều thư tịch, văn học, sử liệu. Riêng Thiền tông, không có nghi lễ rườm rà, không cúng sao giải hạn hay nặng nhiều nghi tế, nhất là khi Trần Nhân Tông lập Trúc Lâm thiền phái, kết tập ba dòng thiền chính là Thảo Đường, Vô Ngôn Thông, Tỳ-ni-đa-lưu-chi. Sau thời gian Phật giáo cực thịnh, Nho giáo bắt đầu ảnh hưởng trong triều chính, chư Tăng rút sâu vào rừng núi tĩnh tu, đất nước trải qua giai đoạn tiêu cực bởi tinh thần hủ Nho, nặng về danh lợi, học hàm phẩm trật; tinh thần siêu thoát của nhà Phật bị đánh mất, mọi cung cầu trong cuộc sống được đo lường bởi danh phận, học sĩ, phẩm trật triều đình qua các giai cấp Sĩ - Nông - Công - Thương... Chính vì thế mà tiếp theo đó, các triều đại nhà Nguyễn không còn đủ lực vô úy gắn kết nhân dân trước sự xâm lăng đô hộ của phương Tây trong thế kỷ XIX.
b) Thời Pháp thuộc
Sau thời gian Gia Long và Tây Sơn tranh chấp, đến khi Quang Trung mất, tinh thần binh sĩ và nội tình phân tán nên Nguyễn Ánh đã thừa thắng, một phần nhờ ngoại bang, bắt tay với Trung Quốc và Pháp, tuy chưa chặt chẽ lắm, nhưng cũng có chỗ cho binh sĩ an lòng. Vua Gia Long có thiện cảm hơn do khi ông còn gian truân có nhờ ông Bá-đa-lộc giúp đỡ. Khi chiến tranh kết thúc, các ông Chaigneau, Vannier và Despiau làm quan tại triều, tuy nhiên, năm 1817, chính phủ Pháp phái tới Việt Nam chiếc tàu Cybèle để thăm dò bang giao, thuyền trưởng là Achille De Kergariou nói rằng vua Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước do Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn. Vua Gia Long sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi hành thì nay bỏ, không nói đến nữa[4]. Đến khi Minh Mạng kế thừa, tinh thần cải cách tiến bộ hơn, thuê quân Pháp huấn luyện quân đội, giúp cho binh lực và nội chính vững mạnh. Vì thế, theo đánh giá đương thời, quân đội nhà Nguyễn cực mạnh so với các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia. Ngược lại đến thời Tự Đức, tổ chức suy sụp có lẽ vì tài chánh hạn hẹp, vả lại Tự Đức không theo cách tổ chức của phương Tây mà quay lại Binh Thư yếu lược của Trần Hưng Đạo. Tuy tiếp thu một số cái hay của Pháp để cải cách, nhưng vua Minh Mạng không có cảm tình với người Pháp như thái độ chung của người Á Đông lúc đó, coi người Âu châu là bọn man di, là quân xâm lược châu Âu. Trong thời kỳ Minh Mạng nắm quyền, tín đồ Công giáo bị đàn áp quyết liệt và các giáo sĩ nước ngoài đã so sánh ông với hoàng đế Nero của Đế quốc La Mã - một hoàng đế từng tàn sát hàng loạt giáo dân Công giáo.
Dưới triều Nguyễn, trong các đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, tuy Phật giáo ít bị kỳ thị nhưng chủ lực chính trị vẫn nằm trong tay Nho gia. Từ năm 1817 về sau, số đông Nho gia cảm thấy có một sự liên kết giữa phong trào truyền đạo Cơ Đốc và sự phát triển của thế lực thực dân, cho nên đã bắt đầu chống đối Cơ Đốc giáo. Sự chống đối này phát triển mạnh từ khi vua Minh Mạng lên ngôi. Phật giáo thời bấy giờ một phần vì không có ảnh hưởng trực tiếp đến chính trị, một phần vì có tinh thần dung hợp không kỳ thị tôn giáo, nên đã không phải là động lực đưa tới những đạo dụ "cấm đạo" của vua Minh Mạng. Chính sách đàn áp kỳ thị Cơ Đốc giáo về phía chống lại chính quyền. Lực lượng Cần Vương mà phần chủ yếu là nho sĩ cũng tiếp tục xô đẩy một số người Công giáo vào thế đối lập[5].
Chính những lý do đó mà Pháp lấy cớ xâm lăng Việt Nam. Chiến tranh Pháp - Việt nổ ra vào thời nhà Nguyễn 1858 - 1884. Đồng thời các giám mục Pháp cũng bắt tay với quân Pháp để thôn tính Việt Nam. Sau đó miền Tây Nam Bộ cũng rơi vào tay Pháp. Thời kỳ Pháp thuộc được kể từ 1884 - 1945. Cũng từ khi nhà Nguyễn bị đô hộ, chữ Nôm, chữ Nho bị thay bởi chữ La tinh ngày nay gọi là chữ quốc ngữ. Sau khi bị Pháp đô hộ, đạo Công giáo được tự do phát triển. Nam Định là cái nôi sơ khai khi đạo Công giáo được truyền vào Việt Nam, các giáo xứ Bùi Chu, Phát Diệm lập cứ điểm vừa truyền giáo vừa chống lại triều đình. Một số chùa bị biến thành nhà thờ. Theo một số tài liệu lịch sử như sách của Louvet La vie de Mgr. Puginier, tiểu thuyết lịch sử Bóng nước Hồ Gươm của Chu Thiên, các tài liệu trong Văn khố Hội Thừa sai Paris (M.E.P.)… cho thấy điều này.
Sau thời gian dài, tu sĩ Phật giáo không cập nhật kiến thức, văn minh Tây phương, cứ mãi ôm ấp chữ Nho, chữ Nôm mà lớp trẻ không thể tiếp thu dễ như chữ quốc ngữ (La tinh), vì vậy khó tìm người trẻ kế thừa “trụ Như Lai xứ”. Vì không được đi học theo kiến thức thời đại, chỉ biết ma chay đám tiệc và làm ruộng, nên hầu hết các sư được gọi là Cổ Sơn Môn hay Lục Hòa Tăng, họ đều có vợ con, ăn thịt cá, uống rượu, kiêm luôn cúng đình cúng miễu. Người dân xem tu sĩ đó là một cái nghề để đáp ứng ma chay, xem ngày tháng cưới hỏi, xây cất... được ưu thế là thân cận gần gũi người dân, nhưng cũng vì thế người dân thiếu sự kính trọng hơn các linh mục. Phật giáo tồn tại trong thời Pháp thuộc nhờ gắn kết với tập quán nhân dân, đáp ứng được nhu cầu tâm linh của giới bình dân. Thêm vào lúc Nho gia chiếm địa vị độc tôn khi nhà Nguyễn dùng đó để khôi phục và bảo vệ nhà nước tập quyền chuyên chế theo thuyết vua là Thiên tử, nên Nho gia đả kích gièm xiểm Phật giáo để vua chúa nghe theo. Thời kỳ hậu Lê đến cuối thế kỷ XIX là giai đoạn suy thoái của Phật giáo.
Khi nền văn minh Tây Âu thâm nhập vào xã hội Việt, mọi cơ cấu truyền thống bị đảo lộn, tình làng nghĩa xóm được đo lường bởi tài sản và địa vị xã hội, thị dân hóa cuộc sống. Gia Long cũng nặng về Tây phương do ân nghĩa, nên ảnh hưởng đến thời Tự Đức, Phật giáo vẫn còn bị giới hạn nhiều mặt về xây dựng và phát triển. Có sự tách hẳn Phật giáo ra khỏi ảnh hưởng triều chính xưa kia. Từ nhà Nguyễn, Phật giáo suy vi hẳn, không nghe danh tánh một cao Tăng chứng đắc hay một danh Tăng nổi bật nào.
Một số vị chân tu ẩn thân nơi rừng sâu núi thẳm, uy tín Phật giáo trong nhân gian cũng nhợt nhạt. Một số tu sĩ ngả sang thần quyền, bùa phép, ảnh hưởng của Đạo gia, mê tín dị đoan xâm nhập vào thiền môn. Ngược lại cách thờ phượng, hành lễ của Công giáo mang tính giản dị thanh thoát, nhạc lễ cũng khác hẳn nhạc lễ trống phách ồn ào của Phật giáo. Tin Lành càng đơn giản hơn và mang vẻ trí thức hơn. Hai tổ chức tôn giáo nói trên được chính quyền bảo hộ và dành nhiều đãi ngộ.
Sau đệ nhị thế chiến, trước sự ồ ạt tấn công văn hóa và tôn giáo từ phương Tây, các cao Tăng Phật giáo ở Trung Hoa, Sri Lanka, Thái Lan ý thức được sự tồn vong của đạo Phật nên các Ngài khởi xướng chấn hưng Phật giáo. Từ 1950 - 1951 Đại hội Phật giáo thế giới tổ chức tại Tích Lan đã chọn giáo kỳ ngũ sắc và thành lập nội quy sinh hoạt chung, tôn trọng các tông phái của mỗi quốc gia, Việt Nam có Hòa thượng Tố Liên dẫn đầu đoàn tham dự, từ đó, Phật giáo Việt Nam là thành viên thường trực trong hội Phật giáo Liên hữu.
Thập niên 1920, tuy Phật giáo Việt Nam suy thoái, vẫn có những bậc lương đống âm thầm đào tạo Tăng tài như: Ở miền Nam có Hòa thượng Từ Phong, Khánh Hòa, Chí Thành, Huệ Quang, Khánh Anh, Tâm Thông, Hoằng Nghĩa...; ở miền Trung có Hòa thượng Tuệ Pháp, Thanh Thái, Đắc Ân, Tâm Tịnh, Phước Huệ...; ở miền Bắc có Hòa thượng Thanh Hanh, Phổ Tuệ... Chủ xướng chấn hưng Phật giáo lúc bấy giờ được khởi xướng ở Ấn Độ bởi cư sĩ David Hewavitarane, người Tích Lan, sau này xuất gia thành Đại đức Dharmapala. Công việc đầu tiên của ông là vận động trùng tu lại những Phật tích quan trọng ở Ấn Độ, và tiếp theo là lập hội Mahabodhi Society, xuất bản tạp chí Phật học, thành lập trung tâm Phật học và tu viện Phật giáo. Nhờ có sự khuyến khích của thi sĩ Edwin Arnold người Anh, tác giả The Light of Asia (Ánh sáng Á châu), và đại tá Henry Steel Olcott (người Hoa Kỳ), Dharmapala đã đạt tới những thành công lớn. Nhờ sự có mặt Tiến sĩ Ambedkar, hàng triệu người Ấn thuộc giai cấp hạ tiện tại Ấn Độ đã quy y theo Phật giáo. Tại Nagpur ngày 14.10.1956, năm trăm ngàn người đã làm lễ quy y trong một lần[6].
Từ chất xúc tác này, chư Tôn đức Việt Nam mạnh dạn bắt tay vào công cuộc chấn hưng Phật giáo mạnh mẽ, trong đó có sự góp sức của các cư sĩ nổi tiếng như bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám, Thiều Chửu, Đoàn Trung Còn.... Mạnh nhất là miền Trung, nơi đào tạo nhiều danh Tăng sau này đã cùng nhau đứng lên chống lại chính sách triệt tiêu Phật giáo của Ngô triều.
2. Sự xuất hiện Tổ sư Minh Đăng Quang và Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam
Trong giai đoạn chấn hưng Phật giáo, Phật giáo miền Nam vẫn chưa có sự được gắn kết chặt chẽ vì chính quyền bảo hộ của Pháp trấn áp nhiều phong trào yêu nước. Một số giáo phái tín ngưỡng được phát triển dưới sự quản lý chặt chẽ về chính trị của nhà nước bấy giờ, nhưng nới lỏng về đạo đức, mê tín hoành hành, vì thế dễ phát sinh tha hóa, nhất là tu sĩ Phật giáo không còn nghiêm minh giới luật, làm cho quần chúng không còn niềm tin tôn giáo như trước đây; do đó một số tín ngưỡng mới ra đời được gọi là tôn giáo nội sinh. Và đặc biệt, ở Nam Bộ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân về kinh tế, văn hóa, xã hội và tư tưởng đã xuất hiện nhiều đạo mới, hoặc đi ra từ Phật giáo, hoặc đi ra từ tín ngưỡng dân gian, hoặc đi ra từ tam giáo như: Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, đạo Minh Sư và các nhóm Ngũ chi Minh đạo (Minh Sư, Minh Lý, Minh Đường, Minh Thiện, Minh Tân) mở rộng ảnh hưởng vào đầu thế kỷ XX, đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo...
Đạo Phật Khất sĩ cũng ra đời trong thời gian này, mang một sắc thái đạo Phật đặc biệt tại miền Nam Việt Nam khi đất nước bị chia đôi sau đệ nhị thế chiến.
Thân thế gia tộc Tổ sư Minh Đăng Quang
Đức Tổ sư Minh Đăng Quang là giáo chủ khai sáng Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam, thế danh là Nguyễn Thành Đạt, tự Lý Huờn; sinh năm Quý Hợi (1923) tại làng Phú Hậu, tổng Bình Phú, quận Tam Bình, Vĩnh Long, miền Nam Việt Nam. Sinh trưởng trong một gia đình hiền lương đạo đức, Ngài là con út trong gia đình có 5 anh chị em. Riêng Ngài được ngụ thai đến 12 tháng. Chào đời được mười tháng thì thân mẫu mất, Ngài được thân phụ và kế mẫu nuôi dưỡng. Thuở ấu thời, Ngài có nhiều đặc tính khác thường so với những trẻ cùng lứa tuổi, thông minh, oai nghi, nói năng, hành động trang nghiêm, điềm đạm. Tuy còn bé nhưng Ngài ham thích đọc sách, nghiên cứu tôn giáo. Do túc duyên với đạo lý, Ngài nhất quyết ra đi tìm chân lý cho dù thân phụ quyến luyến cản ngăn. Mới 15 tuổi, một thân một bóng vượt biên giới qua Campuchia tầm sư học đạo. Qua nhiều thử thách cam go, Ngài được nhà sư Việt gốc Khmer hài lòng, trao truyền gia sản, sự nghiệp, nhưng Ngài từ chối. Rồi nghiệp duyên tiền kiếp còn sót lại, Ngài kết hôn cùng cô Kim Huê - một cô gái công dung ngôn hạnh vẹn toàn, để đáp nghĩa sinh thành với thân phụ lúc tuổi xế chiều, rồi cũng chẳng bao lâu, người phối ngẫu cũng ra đi theo lẽ vô thường. Từ đó không còn bận bịu gia đình, Ngài ra đi quyết tìm chân lý. Núi Thất Sơn là nơi tu luyện tâm thức Ngài suốt thời gian chiêm nghiệm nghiên cứu về Phật giáo.
Tâm nguyện nối truyền Chánh pháp Thích-ca
Trước bối cảnh phức tạp của xã hội và tín ngưỡng bị pha tạp, sau thời gian cầu pháp và ẩn tu, Ngài trở lại thị thành để giáo hóa nhân sinh.
Về hình thức, Ngài sử dụng pháp phục theo Nam tông, theo nguồn gốc của thời Phật tại thế được Phật giáo nguyên thủy bảo tồn đến nay. Ngài chủ trương ăn ngọ, trì bình khất thực nhưng giữ trường trai, ngủ gốc cây như trong “Pháp giáo truyền lưu Tứ y pháp” được đề cập trong giới nhà Phật, đó là con đường chấn chỉnh nếp tu tập đã bị thời gian làm phai nhạt.
Bài pháp đầu tiên Ngài thuyết giảng là “Thuyền Bát-nhã”, sau khi ngộ lý vô thường từ sóng nước dập dìu trên biển Hà Tiên, mang tinh thần hợp duyên, vô thường, vô ngã của nhà Phật. Ngài bắt đầu du phương hoằng hóa với Tăng đoàn “tam y nhất” đúng với bài Nhất bát thiên gia phạn - cô thân vạn lý du, vũ trụ là nhà, vạn vật là bạn!
Tư tưởng Tổ sư Minh Đăng Quang
Quan điểm vũ trụ quan của Tổ sư Minh Đăng Quang trong bộ Chơn lý, tuy giải thích dẫn chứng theo tiến trình khoa học vật lý, từ thể của vũ trụ đến nhân duyên của mỗi quả địa cầu, hình thể địa cầu, ánh sáng của địa cầu... chúng sanh trong vũ trụ... cuối cùng là chân lý vũ trụ theo trình độ khoa học hiện đại. Tóm lại bài Chơn lý “Võ trụ quan” hàm tàng thuyết nhân duyên trong giáo lý Phật giáo Nguyên thủy.
Mười hiện trạng của vũ trụ quan trong bộ Chơn lý đã xác định yếu tố cấu thành qua bốn giai đoạn: thành - trụ - hoại - không với các yếu tố đất - nước - gió - lửa có sinh diệt nhưng vẫn tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, thì với giáo lý nguyên thủy coi một số pháp (dharmas, thành tố) bị ô uế và hạn định là có thật, và đồng thời cũng tin rằng một số pháp không bị ô uế (vô ô nhiễm) và không bị hạn định là có thật. Theo nhận xét của phái Nguyên thủy, Niết-bàn có nghĩa là một sự thay đổi thực sự của những sự sinh tồn cá biệt, hữu hạn (samkrta dharmas: hữu vi pháp) và ô uế (klésas) thành những pháp vô hạn định (asamskrta) và không ô uế. Trong sự hình thành và hoại diệt của vũ trụ vạn pháp, chơn lý đã xác định tính vô thường chi phối bởi nhân quả. Phần XV của “Ngũ uẩn” trong bộ Chơn lý viết: “Chúng sanh sanh ra là bởi ấm, do nhân duyên chuyển nẩy, cái này cái kia sanh cái nọ. Cái có sanh cái có mà thôi, có hiệp có tan...”[7]. Cũng trong Chơn lý:
Không sắc thân đâu có thọ cảm.
Không thọ cảm đâu có tư tưởng.
Không tư tưởng đâu có hành vi.
Không hành vi đâu có thức trí.
Không thức trí đâu có giác chơn![8]
Phật giáo Nguyên thủy đã giải thích duyên khởi như là một tiến trình thời gian ngắn của những thực thể đích thật mà giữa chúng có một chuỗi tương quan nhân quả. Tuy nhiên, Tổ sư Minh Đăng Quang không thuần nghiêng về Nguyên thủy mà Ngài dung nạp tư tưởng Phật giáo Phát triển (Đại thừa) để có một sắc thái trung đạo của Phật giáo Việt Nam.
Trong tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Phát triển đều chấp nhận pháp ấn vô thường - khổ - vô ngã; uẩn - thức - giới; Tứ thánh đế; Bát chánh đạo; Thập nhị nhân duyên... và cũng đều chấp nhận con đường tu tập Giới Định Tuệ.
Luận về chư Phật, Tổ sư Minh Đăng Quang trong phần “Chư Phật” của bộ Chơn lý xác định: “Tất cả chúng sinh là chư Phật”, đó là cách xác quyết khác hẳn với tinh thần của Phật giáo Nguyên thủy. Cũng như quyển “Giác ngộ” trong bộ Chơn lý, Ngài nói: “Bằng thiếu sự toàn giác, như bậc sơ giác, độc giác, hay đại giác, thì nhập định chưa bền lâu, ắt còn phải đi tu thêm hạnh tự giác, giác tha ở trong đời, để cho thành tựu sự giác mãn, tức là tu hạnh Bồ-tát”[9]... Tinh thần Bồ-tát đạo trong bộ Chơn lý của Tổ sư Minh Đăng Quang đã nói lên sự dung hòa giữa hai hệ triết giáo của đạo Phật. Vạn pháp, theo Nguyên thủy thì “pháp hữu ngã không” nhưng theo quan điểm của Tổ sư về vạn pháp thì: Thân thọ sanh từ nơi không tướng / Như giấc mơ do tượng hình ra / Người mơ tâm thức đâu mà / Trụ đâu tội phước, đều là thành không / Pháp lành khởi, vốn xưa là huyễn / Nghiệp dữ gây, cũng huyễn mà ra / Mình bọt đậu, gió lồng qua / Không căn, không thật, pháp là huyễn thôi / Bốn vật lớn, mượn làm thân đó / Tâm không sanh, nhơn cảnh mà sanh / Cảnh không, tâm cũng không thành / Đôi đàng tội phước, như hình huyễn thôi / Thân không thật thấy là thân Phật / Tâm bông lông, biết Phật bông lông / Thân tâm tánh ấy vốn không / Người ta với Phật cũng đồng như nhau / Thân chẳng thấy, biết là thân Phật / Nếu biết rồi, thì Phật là không / Người khôn biết tội tánh không / Thản nhiên chẳng sợ, trong vòng tử sanh / Tánh chúng sanh thảy thanh tịnh hết / Do không sanh không diệt mà ra / Thân tâm là huyễn thôi mà / Huyễn thì tội phước, hóa là thành không / Pháp là pháp, vốn xưa không pháp / Không pháp mà cũng pháp đó đây / Soi ra không pháp buổi nay / Pháp nào pháp nấy, nào hay pháp nào[10].
Phần “Ăn chay”, Ngài cũng định nghĩa rất rõ: “Ăn chay theo chữ Hán gọi là thực trai, đây có nghĩa là món ăn trong sạch vậy…
Ăn chay là trong sạch với miếng ăn, không tham ăn, không vọng ăn, không cố chấp kén chọn món ăn, tâm không nhơ bẩn vì miếng ăn”[11]... Nội dung toàn bài về việc ăn chay, hàm ý tôn trọng luật công bình, không ỷ mạnh hiếp yếu, tôn trọng sự sống của nhau; không vì chữ hiếu mà sát sanh hại vật để cúng hiến cho cha mẹ... Ăn chay thể hiện lòng từ bi đối với các sinh vật nhỏ dại hơn ta, bắt buộc người con Phật phải có lòng từ bi trong việc ăn uống mà không viện cớ “tam tịnh nhục” như vào thời đại chưa biết canh tác rau cải như xưa, nhằm phục vụ cho khẩu dục của người tu, để rồi bị ràng buộc trong vòng nhân quả tội phước sát hại chúng sanh. Đây là quan điểm của Phật giáo Phát triển không thể có trong tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy. Trong tinh thần hòa hợp giữa Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Phát triển, Tổ sư Minh Đăng Quang đã diễn đạt nhuần nhuyễn hợp lý để triển khai tinh thần Bồ-tát đạo.
Tính đạo đức và luật nghi
Biết rằng đạo Phật đã thể hiện tinh thần từ bi đối với chúng sinh, nhưng cụ thể hơn, Luật nghi Khât sĩ trong phần “Tứ y pháp” có dạy: “...Không tự lấy để trừ tham, không tự làm để tránh ác. Uống hỏi xin nước, nằm hỏi xin đất, ăn hỏi xin lá trái, ở hỏi xin cốc hang. Không ngắt lá cây, không bẻ trái, phải lượm xin. Ăn quả chừa hột. Đừng bứng gốc (không xin thái quá). Không dùng đồ vật về sinh mạng của thú, người; hoặc: Và ai không cho kẻ đã hỏi xin, người ấy có tội với công lý, nhưng đừng xin nhiều quá phải mích bụng người”[12].
Trong Tứ y pháp của luật Khất sĩ cũng tương tự với luật Phật giáo Nguyên thủy: Vật dụng để cho hàng xuất gia dùng gọi là phép nương, có 4:
- Đi khất thực
- Mặc y phấn tảo
- Ngụ dưới bóng cây
- Dùng thuốc ngâm với nước tiểu (nước tiểu bò đen).
Sự mà hàng xuất gia không nên làm có 4:
- Hành dâm
- Trộm cắp
- Giết người
- Khoe pháp bậc cao nhơn.
Riêng phần người xuất gia không nên làm thì Phật giáo Nguyên thủy chỉ cấm không giết người. Đạo Phật Khất Sĩ đề cập đến cả mọi động vật, đó là tinh thần Phật giáo Phát triển.
Trong bộ luật nghi giữa Nam tông và Bắc tông có vài điểm khác biệt, nhưng gốc luật tạng cũng phát xuất từ Nguyên thủy, qua các triều đại, quốc độ mà chư Tổ Bắc truyền triển khai du di có khác để thích hợp với thổ nhưỡng từng khu vực. Phật giáo Khât sĩ dung hòa giữa hai tông này và mang sắc thái Phật giáo nội sinh khá đặc sắc, nhưng vẫn giữ tinh thần từ bi cao độ của Bồ-tát hạnh.
Tôn chỉ hành trì
Phật giáo Khất sĩ buổi đầu không nặng về cốt tượng, Ngài từng dạy: “Thờ cúng lễ bái cốt tượng không bằng thờ kinh sách học hành, thờ kinh sách không bằng thờ ông thầy dạy đạo cho mình hiện tại đang sống, thờ ông thầy không bằng thờ bản tâm của mình trong sạch”.[13] Chính vì thế mà trong các tịnh xá Khất sĩ trước 1970, ngoài tượng Đức Phật Bổn Sư và tranh hình Tổ, không thờ thêm bất cứ hình cốt nào khác. Về sau, ảnh hưởng giao hòa với Bắc tông, các tịnh xá đã thờ vong, tượng Quán Âm Bồ-tát, và đọc tụng kinh âm Hán mà trước kia chỉ thuận đọc tụng kinh dịch thuần Việt qua dạng văn vần.
Việc ăn ở ban đầu khi Đạo Phật Khất Sĩ mới thành lập, Tăng đoàn chỉ trú gốc cây không quá hai đêm một chỗ, không nấu nướng cất giữ, không thọ nhận tiền bạc vật báu và sau khi có trú xứ, chư Tăng chỉ được phép lưu trú không quá 3 tháng một chỗ. Do tình hình hiện nay, Tăng Khất sĩ đã hòa nhập chung với sinh hoạt Giáo hội, việc bổ cử di trú hay cất giữ tiền bạc, ăn ngọ... cũng được du di. Tuy nhiên, Tăng thuộc Giáo hội Khât sĩ chính thống vẫn giữ tốt những oai nghi mà một số kẻ lạm dụng hình thức Khất sĩ bên ngoài đã không hội đủ yếu tố chân chánh của một Tăng sư Khất sĩ truyền thống. Đặc biệt một số Tăng Ni Khất sĩ cũng theo đuổi kịp kiến thức thời đại mà trước 1975 họ chuyên tu hơn là trau dồi học vấn.
Sau khi gia nhập vào một hệ thống Giáo hội duy nhất sau 1981, chư Tăng Khất sĩ vẫn được thỉnh giảng ở các chùa cũng như các giảng sư Bắc tông có mặt trong những buổi giảng tại các tịnh xá Khất sĩ. Tuy nhiên, nhiều Tăng Ni thuộc Hệ phái Khât sĩ hiện nay vẫn chưa chủ động trong việc hoằng pháp công cộng mà phần lớn chỉ thí pháp trong các ngày hội cúng dường trai phạn 2 lần mỗi tháng.
Kiến trúc và tổ chức Giáo hội
Tịnh xá là nơi thờ phượng và chỗ cư trú của chư Tăng Ni, hình dáng 8 cạnh (bát giác), một lối kiến trúc độc đáo, thoát khỏi lối xây dựng ảnh hưởng của Trung Quốc có rồng phụng, thờ phượng rườm rà, nhìn vào trông thoáng đãng. Theo quy cách xây dựng xưa kia: “Tịnh xá phải 8m, vuông bốn phía, hình bát giác. Có nhà giảng thuyết pháp, góc vuông 16 thước, bề dài 16 thước...”
Có ba loại hình Giáo hội: Tiểu Giáo hội gồm 20 vị Tăng; Trung Giáo hội là 100 vị và Đại giáo hội là 500 vị. Một Tăng hay một chúng gồm 4 vị[14].
Giáo hội Tăng-già: luôn luôn đi du hành, chớ không ở một chỗ quá ba tháng. Khi đi, đi bộ cả Tăng đoàn, để cho được sự học hành khắp xứ, đủ hạng người và quý nhất là sự giải thoát chỗ ở một nơi, để dứt bỏ tham sân si ái dục dễ dàng, vì chính nguyên nhân của sự giãi đãi, mất đức và phạm giới là bởi ở một chỗ vậy [15]...
Tổ sư Minh Đăng Quang cũng tỉ mỉ trong tứ oai nghi mà bốn bộ Luật Bắc tông - Tỳ ni, Sa-di, Oai nghi, Cảnh sách đã dạy. Bộ Chơn lý “Luật nghi Khất sĩ” đào tạo một vị tu sĩ rất hoàn chỉnh mà đến nay, ai còn ở trong Tăng đoàn đều vẫn phải chấp hành. Đây là hình ảnh Tăng đoàn của Phật còn tại thế, giữ và lưu truyền được giáo pháp Thích-ca. Luật nghi Khất sĩ diễn âm toàn bộ từ luật tạng Phật giáo Phát triển, dễ hiểu dễ nhớ.
III. ĐÔI LỜI TẠM KẾT
Trong tình hình xã hội rối ren, một số tổ chức chống ngoại xâm ra đời, đồng thời cũng xuất hiện nhiều hình thức tín ngưỡng tôn giáo nội sinh kết hợp với chính trị để bảo vệ Tổ quốc. Trước tình cảnh bất khả kháng đó, Tổ sư Minh Đăng Quang xuất hiện làm sống lại, làm tươi nhuận lại cho đạo Phật tưởng chừng bị biến dạng, song song với trào lưu chấn hưng Phật giáo khắp nơi. Việt Nam đã có một hệ phái kết hợp hài hòa giữa hai truyền thống Nam và Bắc truyền, hay Nguyên thủy và Phát triển, từ hình thức đến nội dung, để Phật giáo Việt Nam có bộ mặt mới mẻ hơn, thích hợp với trình độ dân trí và sở thích người dân Nam Bộ lúc bấy giờ, bằng giáo lý với những ảnh dụ gần gũi và ngôn ngữ trong sáng.
Đạo Phật Khất Sĩ là một hình thái khôi phục y bát chân truyền và tu tập sinh hoạt đúng nguyên mẫu Tăng đoàn lúc Phật còn tại thế. Đây là một hệ phái đóng góp vững vàng, không những ở lãnh vực tôn giáo tín ngưỡng, mà còn là nét văn hóa trong sáng cho dân tộc thế kỷ XX. Trăm hoa đua nở của các hệ phái tôn giáo, báo hiệu dân tộc sớm hưởng cảnh bình minh của đất nước sau thời gian dài tăm tối bởi ngoại thuộc. Ngay cả hiện nay, Hệ phái Khất sĩ cũng cùng với GHPGVN đóng góp xây dựng xã hội sau khi thống nhất hai miền. Tăng-già Khất sĩ không những là hệ phái chuyên tu mà còn cập nhật kiến thức thời đại cho các Tăng Ni trẻ, năng động với xã hội nhiều mặt mà vẫn giữ được nét đặc thù của chính mình.
Ngày 14 tháng 12 năm 2013
[1] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận.
[2] Sđd.
[3] Sđd, chương 26.
[4] Wikipedia.
[5] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận.
[6] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận.
[7] Tổ sư Minh Đăng Quang, Chơn lý tập I “Ngũ uẩn”, Hà Nội, Nxb. Tôn giáo, 2009, tr.47.
[8] Sđd, tr.37.
[9] Sđd, tập II “Giác ngộ”, tr.154.
[10] Tổ sư Minh Đăng Quang, Luật nghi Khất sĩ “Pháp”, TP.HCM, Nxb. TP.HCM, 1998, tr.16-17 .
[11] Tổ sư Minh Đăng Quang, Chơn lý tập I “Ăn chay”, Hà Nội, Nxb. Tôn giáo, 2009, tr.313.
[12] Bốn phép nương tựa theo Phật giáo Nguyên thủy.
[13] Chơn lý “Chánh kiến”.
[14]Luật nghi Khất sĩ.
[15] Sđd.
Các bài viết liên quan
- Đạo Phật Khất sĩ và bốn tinh thần tiêu biểu trước khi hòa nhập vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam - Thứ Bảy, 08:56 14-05-2022 - xem: 3937 lần
- Công trình dung hợp khởi phát từ Tổ sư Minh Đăng Quang - Thứ Ba, 09:42 19-04-2022 - xem: 7444 lần
- Sư phát triển của Hệ phái Khất sĩ tại hải ngoại - Thứ Ba, 08:11 19-04-2022 - xem: 4887 lần
- Căn cốt của Hệ phái Khất sĩ và yêu cầu của từng thời đại khác nhau - Thứ Ba, 01:10 19-04-2022 - xem: 4783 lần
- Bước đầu nhận diện những nét chính của Giáo đoàn Khất sĩ và của vị Hành giả Chơn lý - Thứ Ba, 00:51 19-04-2022 - xem: 4114 lần
- Tinh tấn tu tập nhiếp phục thân khẩu ý thanh tịnh - Thứ Năm, 10:14 29-07-2021 - xem: 10203 lần
- Kinh nghiệm kiểm soát và chuyển hóa ác nghiệp - Thứ Hai, 11:47 26-07-2021 - xem: 6937 lần
- Phát huy những giá trị tốt đẹp của Hệ phái Phật giáo Khất sĩ - Thứ Bảy, 22:38 03-04-2021 - xem: 7528 lần
- Phát huy giá trị tôn giáo và xã hội của Hệ phái Phật giáo Khất sĩ Việt Nam trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc - Thứ Năm, 10:28 01-04-2021 - xem: 5846 lần
- Những giá trị của Hệ phái Khất sĩ trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc - Thứ Năm, 10:08 01-04-2021 - xem: 7441 lần
- Hòa thượng Thích Giác Toàn chia sẻ nhân duyên với Chơn Lý của Tổ sư Minh Đăng Quang - Chủ Nhật, 00:03 14-03-2021 - xem: 8130 lần
- Quá trình hình thành và phát triển Hệ phái Khất sĩ Việt Nam ở Bình Dương - Thứ Bảy, 02:54 18-07-2020 - xem: 8594 lần