CHÀO MỪNG QUÝ VỊ ĐÃ GHÉ THĂM TRANG NHÀ. CHÚC QUÝ VỊ AN VUI VỚI PHÁP BẢO CAO QUÝ !

Khái quát về giáo pháp Khất sĩ của Tổ sư Minh Đăng Quang

 

I. Hệ phái và người sáng lập

Hệ phái Khất Sĩ là một tổ chức Phật giáo có giáo chủ và môn đồ với đầy đủ 4 chúng: Tăng, Ni, thiện nam và tín nữ.

Người sáng lập ra Hệ phái là ngài Minh Đăng Quang.

Ngài Minh Đăng Quang xuất thân từ một gia đình Nho giáo tại làng Phú Hậu, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long miền Nam nước Việt. Thân sinh của Ngài là cụ ông Nguyễn Tồn Hiếu và cụ bà Phạm Thị Nhàn. Tuổi nhỏ, Ngài đã tỏ ra một con người siêu việt: Thông minh, điềm tĩnh, giàu lòng nhân ái và thường tìm đến nơi thanh vắng để trầm tư.

14 tuổi Ngài đã để tâm nghiên cứu Phật pháp. Khi đủ cơ duyên ly trần, Ngài qua Miên (Campuchia) tìm Thầy học đạo. Qua thời gian tham học với các nhà Sư Miên, Ngài chưa được thỏa mãn với những giáo điều của các vị này truyền dạy. Cuối cùng, Ngài về lại Việt Nam, đến núi Tô Châu - Hà Tiên, lên mũi Nai ngồi nhập định và đắc định, triệt ngộ chơn lý.

Sau khi đã thấu triệt chơn lý, Ngài rời núi xuống thôn làng, hành trì Tứ Y Pháp - Pháp hành căn bản của Tăng đoàn vào thời Đức Phật tại thế. Ban đầu chỉ một mình với Tam Y nhất bát, Ngài du hóa đó đây, lấy pháp khất thực làm phương tiện tự độ, độ tha.

Nhìn thấy thân tướng trang nghiêm, lục căn tỏa sáng của Ngài, bá tánh vô cùng ngưỡng mộ, họ rủ nhau đến đặt bát cho Ngài và đợi Ngài độ ngọ xong, họ thưa hỏi về đạo lý mà Ngài đang hành trì. Ngài cho họ biết là Ngài đang khôi phục lại pháp hành của Phật và Thánh Tăng ngày xưa mà hiện nay đã bị quên lãng, bởi vì chỉ có pháp hành này mới đưa hành giả đến giác ngộ, giải thoát.

Ngài giảng giải thông suốt, khế lý, khế cơ, làm thỏa mãn được sự tìm hiểu của mọi tầng lớp thính chúng. Trong số những người đến nghe Ngài giảng, có người phát tâm xuất gia, tình nguyện sống đời phạm hạnh, du phương hóa đạo như Ngài. Có người xin được làm cư sĩ tại gia hộ trì chánh pháp.

Chỉ trong vòng 7-8 năm (1947-1954) Ngài đã du hóa khắp hai miền Tây và Nam Bộ, thâu nhận hàng trăm đệ tử xuất gia, tiếp độ hàng ngàn Phật tử tại gia. Tăng đoàn của Ngài đi đến đâu tịnh xá mọc lên đến đó, đúng như lời nhà thơ Trụ Vũ viết:

“Như hướng dương theo mặt trời

Một người đi cả vạn người theo chân.

Nền móng đạo đắp xây lần

Tăng-già Khất Sĩ truyền chân Phật thừa”.

II. Tổ sư Minh Đăng Quang với vấn đề Tiểu thừa và Đại thừa

Khi còn là một hành giả, Tổ đã đi tham vấn các vị Thầy của hai tông phái Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền, nhưng Ngài nhận thấy khó có thể tương ưng với pháp hành của các vị ấy. Ngài thấy rằng Phật giáo Nam truyền tuy còn bảo trọng giới tướng nhưng cố thủ tam tịnh nhục, là hoàn cảnh Tăng-già Ấn Độ thời xưa, còn hiện tại Việt Nam chúng ta vốn rất dồi dào về rau quả, đủ bổ dưỡng cho sức khỏe con người, không cần đến huyết nhục động vật mới có thể sống được. Vả lại, bản chất người Việt Nam hiền lành, hiếu sinh, không tán thành Tăng Ni dùng huyết nhục, Tăng Ni mà ăn mặn là “Bất cận nhân tình”.

Trong bài kệ “Cầu Nguyện Hòa Bình” Tổ viết:

“Càng tập nhiễm ăn dùng huyết nhục

Tánh tình người lắm lúc đổi thay

Thấm vào cơ thể lâu ngày

Hòa chung chất máu các loài thú muông.

Đời hăng hái quay cuồng chém giết

Bởi nung bầu nhiệt huyết bùng sôi

Hồn oan chết thảm không nguôi

Thù xưa vương vấn dục xuôi giặc loàn”.

Còn Phật giáo Bắc truyền tuy có ăn chay nhưng phần lớn lúc bấy giờ lại còn ăn chiều tối, mà trong một ngày ăn nhiều bữa như vậy thì rất bận rộn về vấn đề ẩm thực, chiếm hết thời giờ tu tập, ban đêm khó hành thiền. Phật giáo Bắc truyền lại không đi trì bình khất thực, không có hạnh vân du, ở mãi một chỗ thì khó giải thoát. Cho nên Tổ dung hợp, lấy hạnh ăn ngọ của Nam tông và hạnh ăn chay của Bắc tông, cộng với pháp trì bình khất thực, Tam Y nhất bát: “Nhất bát thiên gia phạn / cô thân vạn lý du” mà thành lập ra Giáo pháp Khất Sĩ.

Như vậy, Hệ phái Khất Sĩ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai tông phái Nam truyền và Bắc truyền, là sự gạn đục khơi trong, rút tỉa những ưu điểm của mỗi bên, phối hợp với giáo lý Tứ Y Pháp của Phật Tăng ngày xưa và tôn vinh những giá trị đích thực của đạo Phật, thành lập nên Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ Việt Nam với chí nguyện: “NỐI TRUYỀN THÍCH CA CHÁNH PHÁP”.

III. Nhơn duyên thành lập Hệ phái Khất Sĩ

Vạn pháp trên thế gian này đều nằm trong quy trình nhân quả. Kết quả nào cũng xuất phát từ một nguyên nhân. Hoàn cảnh Phật giáo Việt Nam nói chung và Phật giáo miền Tây Nam Bộ nói riêng vào những thập niên 30-50 là nhân tố quyết định cho Tổ sư Minh Đăng Quang thành lập ĐẠO PHẬT KHẤT SĨ VIỆT NAM.

Đọc Việt Nam Phật giáo sử lược của TT. Thích Mật Thể và Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang thì rõ. Sách viết:

Những bậc Cao Tăng tuệ đức thì ít như sao mai, kinh điển còn nằm nguyên trong Hán tạng, người xuất gia thì quên chí nguyện cao cả và đại hạnh của mình là: “Tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự” để hoằng truyền chánh pháp, phổ độ chúng sanh, lại còn bị đồng hóa với thế tục, đời sống bất tịnh, lấy sự cúng kiến để làm kế sinh nhai. Người xuất gia như thế thì người tại gia làm sao còn biết được Phật pháp là gì. Ngay cả Phật Thích Ca làm gì, ở đâu, lịch sử ra sao cũng không biết nốt, còn nói chi đến việc học đạo tu tập. Nhìn chung thì cả bầu trời Phật giáo Việt Nam lúc đó đang chìm trong bóng tối âm u”.

Phật giáo Việt Nam lúc bấy giờ suy vi như vậy, bi đát như vậy, thì Phật giáo miền Tây Nam Bộ lại càng suy vi, bi đát hơn. Chúng ta ai cũng biết miền Tây Nam Bộ có rất nhiều đạo giáo. Người miền Tây lại giàu đức tin cho nên rất dễ bị lợi dụng. Ít bữa chúng ta nghe nói chỗ này Phật về, vài hôm lại nghe chỗ kia Thánh hiện, ai cũng tự xưng mình là Phật mượn xác, là Thánh nhập hồn để cứu nhân độ thế. Con người vốn sẵn lòng tham, cho nên khi nghe nói có ai đó thương mình, muốn giúp mình thì lập tức tin ngay. Tà giáo, ngoại đạo lợi dụng kẽ hở này, xâm nhập vào những nơi có tín ngưỡng như chùa chiền chẳng hạn, bởi vì trong chùa “Thiếu những bậc cao Tăng tuệ đức”. Còn phàm Tăng thì không có môi trường tu học, cho nên khó thoát khỏi ảnh hưởng của thế tục, của tả đạo bàng môn. Mỗi ngày một ít, từ chỗ chánh tín đi đến mê tín, chánh mạng đi đến tà mạng là không thể tránh khỏi.

Sở dĩ Phật giáo Việt Nam suy vi, xuống dốc như vậy là do xã hội bên ngoài xuống dốc, suy vi: "Triều đình Huế thì thối nát, vua chỉ là hư vị, quan lại Việt Nam thì hèn nhát, tham ô, quan lại Pháp thì tham tàn độc ác..."

Đau xót trước thảm trạng suy vi của đạo pháp, vì sự thiếu vắng các bậc cao Tăng khiến tín đồ đi theo tà đạo, rơi vào mê tín dị đoan, để chùa chiền cho tả đạo bàng môn lợi dụng. Từ đó, Tổ Minh Đăng Quang đã thành lập Đạo Phật Khất Sĩ để: "Dựng lại những gì bị nghiêng đổ, phơi bày những gì đã bị chôn vùi, che phủ, khêu tỏ ngọn đèn đã lu mờ", lấy y bát chơn truyền làm nền tảng sinh hoạt Tăng đoàn, nêu cao tinh thần vô ngã và vô ngã sở của Phật Thích Ca Mâu Ni, phục hồi triệt để nếp sống giải thoát cho hàng xuất gia, hầu xứng danh “Chúng Trung Tôn” của nhân loại.

Về ý nghĩa của hai chữ Khất Sĩ, Tổ giảng như sau:

Khất là xin. Sĩ là học (học trò). Có 2 thứ xin:

Xin vật chất để nuôi thân.

Xin tinh thần để nuôi trí.

Từ xin để nuôi thân như cỏ, cây, thú, đến xin để nuôi trí như người, Trời, Phật.

Sĩ là Học (học trò).Học nơi Thầy, nơi bạn, học với tất cả vạn vật, các pháp. (Nghĩa là học bằng văn tự, bằng lắng nghe (văn), bằng suy gẫm (tư), bằng thực hành, tu tập (tu).

Tất cả chúng sanh đều là học trò vì ai cũng học mới biết, mà học có nghĩa là xin. Người xuất gia nào cũng đi từ Khất Sĩ đến Vô Thượng Sĩ là Phật. Chính Đức Phật là ông Thầy cao thượng Vô Thượng Sĩ, còn Tăng là Khất Sĩ, là học trò đang học.

Khất Sĩ là học trò nghèo xin ăn để tu học. Khất Sĩ là cái sống của chơn lý võ trụ mà tất cả chúng sanh đều là học trò cả thảy, bởi vì chúng sanh là cái biết, từ chưa biết đến đang biết và cái biết sẽ hoàn toàn ngơi nghỉ”.

Lẽ xin là chơn lý võ trụ mà chúng sanh kẻ thì xin vật chất để nuôi thân, người thì xin các pháp để nuôi trí, ai ai cũng là kẻ đi xin cả.

Thật ra, danh từ Khất Sĩ mà Tổ Minh Đăng Quang dùng không phải do Tổ tùy tiện đặt ra, mà nó có nguồn gốc từ Kinh Phật. Khất Sĩ là một trong ba nghĩa trong Phạn ngữ Bhikkhu, để chỉ cho hàng xuất gia phạm hạnh, đệ tử của Phật. Danh từ Bhikkhu được người Trung Hoa dịch thành ba nghĩa như sau:

Khất Sĩ.     2. Bố Ma     3. Phá Ác.

Khất Sĩ đã giải thích ở trên. Bố ma có nghĩa là làm cho ma quân kinh sợ. Ma quân đây chỉ cho bản ngã tham, sân, si, phiền não chướng...

Phá ác là dẹp tan các ác pháp như ngũ dục: Tài, sắc, danh, thực, thùy; các bất thiện pháp.

Tổ Minh Đăng Quang chỉ sử dụng một nghĩa Khất Sĩ, không dùng hai nghĩa sau, vì Khất Sĩ là nghĩa chính, hai từ sau là nghĩa phụ. Bởi vì có bố ma, phá ác, mới được gọi là Khất Sĩ (Chơn Lý “Khất Sĩ” tập 11).

IV. Những đặc điểm trong bộ Chơn Lý của Tổ sư Minh Đăng Quang

Đạo Phật Khất Sĩ đang trong thời kỳ hưng thịnh thì đến tháng 2 năm 1954 bỗng nhiên Tổ sư Minh Đăng Quang vắng bóng một cách truyền kỳ, Ngài chỉ lưu lại cho đời một bộ CHƠN LÝ gồm 69 quyển. Trong đó chứa nhiều đạo lý cao siêu, nhiều kiến giải minh triết, cập nhật hóa những diễn tiến của đạo Phật hiện đại. Chẳng những trong lĩnh vực tâm linh Giới, Định, Tuệ, giác ngộ, giải thoát, mà cả trong lĩnh vực vật lý học, khoa học, lĩnh vực nào Ngài luận giảng cũng giản đơn, thông suốt. Như nói về Võ Trụ Quan, Ngài viết:

Võ trụ là một vật thể rộng lớn, tối đen, tự nhiên, vắng lặng, đứng vững mãi mãi, như một quả lựu cực to, trong ấy có chứa những quả địa cầu lơ lửng như những hạt lựu nhỏ. Cái vỏ ấy không ai biết nó là tới đâu, vì muôn loài đều ở trong đó. Những quả địa cầu ở trong võ trụ không có số đếm, không có số lường, không thể nói được, là vì cái đang nổi, cái đang tan, cái dồn qua, cái tẽ lại, cái lớn, cái nhỏ, không đồng. Quả địa cầu nào cũng do bốn đại: đất, nước, gió, lửa hiệp lại, có sẵn tự nhiên như vậy, mà không thể nói từ đâu”. (Võ Trụ Quan, tập 1)

Mục sư Lê Trung Trực - Tiến sĩ siêu hình học Á Châu đánh giá về bộ Chơn Lý như sau:

Đây là bộ kinh rất phong phú, đa dạng, bao la, uyên bác, rất nhiều vấn đề quan yếu khác nhau, mỗi tập là một thuyết đề không trùng lập, mà mỗi chữ đều chọn lọc có ý nghĩa. Dù người đọc ở tầm mức nào, cũng sẽ nhận ra ngay, đây là một vị phi thường xuất chúng”.

Một đoạn khác ông viết:

Ngài Minh Đăng Quang là một bậc Thầy cho các hạng siêu thượng thừa. Ngài dùng siêu thức Chánh Đẳng Chánh Giác của hàng Bồ-tát giáng thế để dìu dắt chúng sanh tại miền Nam Việt Nam. Ngài phá chấp triệt để bằng điển quang biện chứng pháp”.

Đoạn khác ông viết tiếp:

Thiên văn học ngày nay còn đang nghiên cứu với nhiều giả thuyết về dãi ngân hà, không vị bác học nào dám khẳng định chắc chắn mà chỉ là giả thuyết thôi. Về cấu trúc kiến tạo khoa học kỹ thuật tiến bộ của NASA càng ngày càng khám phá ra nhiều dữ kiện mới ngoài vũ trụ không gian, nhiều sự việc trái ngược với giả thuyết cũ. Trong khi đó, hơn 50 năm trước, Tổ Minh Đăng Quang đã nhìn thấy vũ trụ qua siêu thức nói về thể của vũ trụ, nhân duyên quả địa cầu, ánh sáng của quả địa cầu, sự tiến hóa của nhân loại trên quả địa cầu.

Sau khi quả địa cầu tan hoại và chơn lý của vũ trụ. Những gì Ngài viết, khoa học hiện nay đang hướng đến và đi đến, phải lần bước kiểm nhận bằng các phương tiện dụng cụ khả năng giới hạn của họ. Siêu thức của vị Đại Giác là phương tiện không lường để đo cả tiểu lẫn đại vũ trụ... (Tìm hiểu Chơn Lý của Mục sư Lê Trung Trực)

Tuy quá trình hoằng pháp rất ngắn ngủi, Tổ đã lập nhiều kỳ tích phi thường. Một trong những điểm chính là Ngài đã tái định những siêu lý Phật pháp bằng ngôn ngữ địa phương, vừa giản dị vừa sáng tỏ, rất dễ cho mọi người tiếp nhận, và một khi đã tiếp thu được là có thể bước vào được trong những con đường tích cực của đạo Phật, một con đường thẳng tắp, không bị ràng buộc vào những thành kiến tôn giáo, tông môn, Đại thừa, Tiểu thừa; không bị ràng buộc vào những giới điều mà nó chỉ có tính cách hoàn cảnh, địa phương, phong tục chẳng hạn như chấp thủ (tam tịnh nhục) v.v...

Sở dĩ Tổ dũng cảm san bằng những chướng ngại đó, là vì chơn lý đó đã được Tổ xác chứng tự thân (tu chứng, tuệ tri), cho nên Tổ không ngần ngại nói thẳng, nói thật.

Những gì các bậc đạt ngộ luận về tâm linh, nghĩa là các Ngài luận về lĩnh vực siêu thức. Người thế gian chỉ biết những gì trong phạm trù thế gian, tương đối (Tục đế), không thể nào hình dung ra được những chân lý tuyệt đối (Chân đế) do vậy họ không tin, đôi khi còn bài bác.

Câu chuyện giữa Vương An Thạch và Thi hào Tô Đông Pha là một bằng chứng thú vị:

Vương An Thạch khi dạo núi, ông mục kích được cảnh tượng của núi non, ông liền hạ bút viết hai câu thơ nổi tiếng:

“Minh nguyệt sơn đầu kiếu

Hoàng cẩu ngọa ba tâm

Hai câu thơ này được người đương thời truyền đọc khắp nhơn gian. Nhà thơ Tô Đông Pha khi nghe hai câu thơ đó, ông bảo là phi lý, ông cầm bút sửa lại cho hợp lý:

“Minh nguyệt sơn đầu chiếu

Hoàng cẩu ngọa ba âm”.

Vì “Minh nguyệt” là trăng sáng. “Hoàng cẩu” là chó vàng. Tô Đông Pha suy luận rằng trăng thì chỉ “chiếu sáng” chớ không thể “kêu”, chó vàng thì chỉ nằm dưới bóng râm (âm) của bụi hoa chứ không thể nằm giữa đóa hoa (ngọa ba tâm).

Nhưng rồi khi có dịp đăng sơn và đến tận chỗ mà trước kia Vương An Thạch viết hai câu thơ đẹp đẽ đó thì ông mới vỡ lẽ, hóa ra “minh nguyệt” đây không phải là trăng sáng mà là tên của một loài chim, và “hoàng cẩu” đây cũng không phải là chó vàng, mà là loài sâu có tên “Hoàng Cẩu”.

Vương An Thạch viết theo cái thấy, nghe trực tiếp của mắt tai mình. Còn Tô Đông Pha chưa từng chứng kiến chim Minh Nguyệt hót vang rừng núi và sâu Hoàng Cẩu ăn rụi những đóa hoa, mà chỉ hiểu biết theo sự suy luận của trí óc thế gian. Cái hiểu biết của bộ não (tưởng tri) thường bị tưởng uẩn xuyên tạc, bẻ cong, cho nên cái hiểu biết đó bị khúc xạ, không còn chính xác nữa.

Cũng vậy, Chơn Lý của Tổ Minh Đăng Quang được Ngài viết bằng tuệ giác mà tự thân Ngài đã thể nhập, đã chứng nghiệm, nó thuộc về phạm trù xuất thế gian, tuyệt đối, không thể dùng trí óc thế gian tương đối mà suy nghĩ được. Nếu chúng ta có đầy đủ thiện căn, chúng ta sẽ đi vào chơn lý bằng con đường “thâm tín”, hoặc chúng ta thực hành rốt ráo Giới - Định - Tuệ bằng con đường “Tinh Tấn” thì một ngày nào đó, khi ba-la-mật tròn đầy, chúng ta cũng sẽ đến được chỗ của Tổ đã đến.

Đánh giá về những bậc giác ngộ là một điều không thể, nếu không muốn nói là phạm thượng, vì con người không thể hiểu biết được những gì ngoài khả năng phàm phu. Lịch sử nhân loại đã cho chúng ta thấy những tuyên bố của các bậc vĩ nhân, phải hàng bao thế kỷ loài người mới theo kịp, mới biết là đúng, như trường hợp của nhà bác học Galilée.

Một Cao Tăng miền Nam đã nói:

“Đánh giá về một bậc chơn tu không chỉ nhìn vào hiện tại của họ là đủ, mà phải còn nhìn vào hậu duệ của họ nữa. Sự phát triển của đệ tử sau này là cây thước đo về tầm vóc và đạo đức của Thầy Tổ”.

V. Sự đóng góp của Đạo Phật Khất Sĩ đối với Phật giáo Việt Nam

Nếu chúng ta là những nhân chứng lịch sử vào những thập niên của tiền bán thế kỷ XX thì chúng ta hẳn biết xã hội Việt Nam lúc bấy giờ bi đát như thế nào, Phật giáo Việt Nam lúc đó suy vi ra sao, và sự ra đời của Tổ Minh Đăng Quang với Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ là cần thiết đến mức độ nào. Sự có mặt của Tổ Minh Đăng Quang với pháp học, pháp hành của Ngài vô hình trung là một đóng góp tích cực toàn triệt về giới điều, về tín ngưỡng, là sự chấn chỉnh lại toàn bộ cơ cấu Tăng-già, thiết lập con đường Giới - Định - Tuệ vững chãi, củng cố lại niềm tin vào Tam Bảo cho hàng Phật tử tại gia. Đó là một đóng góp tích cực cho phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam vào những thập niên 30- 40.

Tóm lại, Khất Sĩ là học trò nghèo xin ăn để tu học. Xin vật chất để nuôi thân, xin tinh thần để nuôi trí, xin đạo đức để nuôi tâm, để đi đến Vô Thượng Sĩ là Phật.

Khất Sĩ là lẽ sống chung của vũ trụ. Tất cả chúng sanh thảy đều là Khất Sĩ, vì ai cũng phải ăn mới sống, cũng phải học mới biết, xin trực tiếp hoặc xin gián tiếp cũng đều là xin cả.

Người sáng lập ra giáo pháp Khất Sĩ là Tổ sư Minh Đăng Quang.

Hệ phái Khất Sĩ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai tông phái Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền, là sự chấn chỉnh về giáo điều mà lúc bấy giờ đang bị suy thoái. Tổ Minh Đăng Quang là người làm sống lại giá trị đích thực của Đạo Phật.

Chánh pháp thì bao giờ và lúc nào cũng đem lại lợi ích thiết thực cho chúng sanh. Quả thấp nhất mà người Khất Sĩ có thể đạt được trong kiếp hiện tại này là “Hiện tại lạc trú”.

    Chia sẻ với thân hữu:
    In bài viết:

Các bài viết liên quan