CHÀO MỪNG QUÝ VỊ ĐÃ GHÉ THĂM TRANG NHÀ. CHÚC QUÝ VỊ AN VUI VỚI PHÁP BẢO CAO QUÝ !

Sự góp phần phát triển Phật giáo Việt Nam của giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam quá khứ và hiện tại

SỰ GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO VIỆT NAM

CỦA GIÁO HỘI TĂNG GIÀ KHẤT SĨ VIỆT NAM

QUÁ KHỨ VÀ HIỆN TẠI

Hòa thượng Thích Thiện Nhơn

Phó Chủ tịch Thường trực

kiêm Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự GHPGVN

 

I. Vài nét về lịch sử Phật giáo Việt Nam

Đạo Phật truyền vào Việt Nam từ cuối thế kỷ thứ II, đầu thế kỷ III, nhưng đến thế kỷ XVII mới truyền đến vùng đất Nam Bộ (từ năm 1611, lưu dân từ Thuận Quảng đã vào định cư sinh sống). Năm 1694, Tổ sư Nguyên Thiều từ Thuận Hóa vào hoằng hóa phương Nam, trú tại chùa Đại Giác – Đồng Nai. Năm 1744, Hòa thượng Linh Nhạc Phật Ý sáng lập chùa Từ Ân – Gia Định và thiền sư Long Thiền người Quảng Ngãi, đến xây dựng chùa Hội Tôn – Bến Tre. Năm 1725, Hòa thượng Hoàng Long người Bình Định đến hoằng đạo tại Hà Tiên, xây dựng chùa Bạch Tháp. Năm 1772, Hòa thượng Viên Quang về trụ trì hành đạo tại chùa Giác Lâm – Tân Bình (Gia Định). Năm 1900, Hòa thượng Bửu Quang, Hòa thượng Diệu Pháp từ Bình Định vào hành đạo tại chùa Phước Minh – Trà Vinh, v.v… Đạo Phật cứ như thế phát triển.

Đến năm 1920, Hội Lục hòa Liên hiệp do tổ Khánh Hòa khởi xướng, mở đầu phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam. Năm 1931, chính quyền Pháp cho phép thành lập Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học, trụ sở đặt tại chùa Linh Sơn – Sài Gòn, do Tổ Khánh Hòa làm Hội trưởng. Năm 1934, thành lập Hội Lưỡng Xuyên Phật học Trà Vinh do Hòa thượng An Lạc – chùa Vĩnh Tràng (Mỹ Tho) làm Hội trưởng.

Trong bối cảnh ấy đã ra đời một tổ chức Phật giáo người Việt, gọi là Phật giáo Nguyên thủy do người Việt xuất gia tu học tại Nam Vang, rồi về hoằng đạo tại miền Nam Việt Nam. Khoảng năm 1930, cụ Nguyễn Văn Hiểu - công chức Công chánh làm việc ở sở Hỏa xa (Sài Gòn), nghiên cứu quyển “Tuệ giác của Đức Phật” - tác giả Georgos Grimm (người Đức). Một hôm, cụ Lê Văn Giảng (bác sĩ thú y) ở Nam Vang về nghỉ tại nhà cụ Hiểu; hai người cùng trao đổi các tài liệu giáo lý Nam tông và quyết chí: Một người đi tu lo hoằng dương Phật pháp, một người làm cư sĩ hộ đạo. Sau đó, hai cụ đã phát tâm xây dựng chùa Sùng Phúc tại Nam Vang. Đây là Tổ đình đầu tiên của Phật giáo Nam tông người Việt trên xứ sở chùa Tháp, trước khi có Tổ đình Bửu Quang – Gò Dưa (Sài Gòn) xây dựng năm 1938 trên phần đất của ông Bùi Nguơn Hứa hiến cúng và chùa Kỳ Viên (năm 1945). Khi nhân duyên hội đủ, vào năm 1935, cụ Lê Văn Giảng đã phát tâm xuất gia tại chùa Sùng Phúc với Ngài Phó Vua Sãi (Hòa thượng Chua Nat) chùa Unalom (Phnom Penh - Nam Vang) và được Hòa thượng Bổn sư tế độ ban pháp hiệu Hộ Tông. Năm 1950, Giáo hội xây dựng chùa Kỳ Viên (Bàn Cờ, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh) làm trụ sở cho Hội. Năm 1957, chính quyền Sài Gòn chính thức cho phép thành lập Giáo hội Phật giáo Tăng-già Nguyên thủy Việt Nam, với một Ban Chưởng quản, do Hòa thượng Bửu Chơn làm Tăng thống, Hòa thượng Hộ Tông làm Phó Tăng thống v.v… Và cứ thế phát triển đến các tỉnh miền Trung, miền Đông và Tây Nam Bộ.

II. Vài nét về lịch sử hình thành Hệ phái Khất Sĩ Việt Nam

Tổ sư Minh Đăng Quang thế danh Nguyễn Thành Đạt, tự Lý Huờn, sinh ngày 26 tháng 9 năm Quý Hợi (1923) tại làng Phú Hậu, tổng Bình Phú, quận Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Tồn Hiếu, thân mẫu là cụ bà Phạm Thị Tỵ, kế mẫu là bà Hà Thị Song. Năm 1929, gia đình di cư lên thị xã Vĩnh Long sinh sống tại cầu Kinh Cụt, phường 1. Ngài theo học trường Tống Phước Hiệp (nay là trường Lưu Văn Liệt). Năm 1938, Ngài thôi học, quyết chí xuất gia tầm đạo, sang Nam Vang sinh sống, nghiên cứu giáo lý Nam tông suốt 3 năm.

Như trên đã đề cập, chắc chắn trong thời gian Tổ sư lưu lại Nam Vang nghiên cứu giáo lý Nam tông, nhất thiết là phải ở tại chùa Sùng Phúc, do Hòa thượng Hộ Tông cùng cụ Nguyễn Văn Hiểu sáng lập, không thể nghiên cứu tại chùa Unalom của Phó Vua Sãi Chua Nat, vì nơi đây không có kinh điển chữ Việt, chữ Pháp mà chỉ là chữ Khmer, Pali và Sanskrit.

Khi trở về Việt Nam, nếu Tổ sư tiếp tục nghiên cứu giáo lý Nam tông thì phải tại chùa Bửu Quang, Gò Dưa, Thủ Đức. Chùa được sáng lập năm 1938 cũng do Hòa thượng Hộ Tông, Hòa thượng Thiện Luật, cụ Nguyễn Văn Hiểu, ông Bùi Nguơn Hứa sáng lập và tại chùa Kỳ Viên (Quận 3, Sài Gòn) năm 1945.

Năm 1946, Ngài xuất gia tu học tại chùa Linh Bửu, Mỹ Tho do Hòa thượng Thủ tọa Đoàn Ngọc Đê trụ trì. Tại đây, Ngài đã thọ giới sa-di, cụ túc. Theo phương thức thọ giới của Phật giáo Bắc truyền thì giới Bồ-tát là có thể tự phát nguyện lãnh thọ (kinh Anh Lạc), nhưng giới bản Tỳ-kheo là phải có Thầy Tế độ truyền thọ, không có quy định tự thọ giới. Theo luật Bắc truyền, có hai trường hợp: Thứ nhất là truyền giới Phương trượng, Thầy trò truyền cho nhau (2 người) vẫn đắc giới; thứ hai là những vùng ít Tăng, thì chỉ cần tam sư (3 Thầy) là Hòa thượng Yết-ma, Giáo thọ, và 1 vị Tôn chứng, và phần lớn chỉ truyền 4 giới trọng, còn lại 13 pháp hữu dư, 2 pháp bất định, 30 pháp xả đọa, 90 tội đọa, 4 pháp hướng bỉ hối, 100 pháp chúng học, 7 pháp dứt sự tranh cãi thì Thầy tế độ nói các vị phải tự tìm Thầy hướng dẫn, dạy dỗ, hoặc tự nghiên cứu tiếp, vì không có thời gian truyền hết 250 giới như giới bản đã đề cập. Do đó, có thể hiểu tự phát nguyện thọ giới là Thầy Tế độ chỉ truyền 4 giới đầu mà thôi, còn lại tự nghiên cứu, tìm hiểu, tu học, hành trì theo giới pháp Tỳ-kheo. Còn trường hợp ngộ đạo, căn cứ giáo lý Bắc truyền, nhất là Luận Du Già Sư Địa quyển 34 do Bồ-tát Di-lặc thuyết giảng, Bồ-tát Vô Trước tập hợp thành Luận vào thế kỷ thứ V, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch sang Hán văn vào thế kỷ thứ VII, thì hàng Bích-chi Phật (Độc Giác) có ba hạng là Đại Bích-chi Phật, Duyên Giác Bích-chi Phật, Tiểu Bích-chi Phật. Trong đó, vị thứ hai ghi: Nhân Duyên Giác (Bích-chi Phật) do quả báo, phúc đức hạnh nguyện đời trước nên đời nay không cần phải nghe theo người khác nói pháp, mà tự mình có khả năng phát sinh trí tuệ như thấy hoa rơi, lá rụng, hiện tượng vô thường… mà ngộ đạo. Nếu nói theo Tứ quả Thinh Văn là Bất Hoàn (A-na-hàm), muốn đi đến chứng quả A-la-hán thì không nương tựa vào Phật, mà tự tu, tự ngộ và chứng quả A-la-hán.

Sau khi chứng ngộ, Ngài bắt đầu truyền đạo với danh xưng “Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam, Nối truyền Thích-ca Chánh pháp” khắp các vùng Đông, Tây Nam Bộ. Từ đó, Phật giáo Nam Bộ tiếp nhận thêm một tổ chức Phật giáo mới đó là Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam do Tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập.

Năm 1954, sau khi Tổ ngộ nạn, Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam được tiếp tục duy trì, phát triển do chư đệ tử của Tổ sư kế nghiệp, hình thành các Giáo đoàn: Giáo đoàn I do Nhị Tổ Giác Chánh và Trưởng lão Giác Như lãnh đạo; Giáo đoàn II do Trưởng lão Giác Tánh và Đức Thầy Giác Tịnh lãnh đạo; Giáo đoàn III do Đức Thầy Giác An lãnh đạo; Giáo đoàn IV do Hòa thượng Giác Nhiên lãnh đạo; Giáo đoàn V do Đức Thầy Giác Lý lãnh đạo; Giáo đoàn VI do Thượng tọa (TT.) Giác Huệ và TT. Giác Đức lãnh đạo. Về Ni giới, Tổ hóa độ Ni trưởng Huỳnh Liên, Bạch Liên, Thanh Liên v.v… hình thành Giáo đoàn Ni và cùng các Giáo đoàn Tăng hành đạo khắp các miền Trung và Nam.

III. Sự hòa hợp và đóng góp cho sự phát triển của Phật giáo Việt Nam

Khi cuộc cách mạng ngày 01/11/1963 thành công, Phật giáo thoát cơn pháp nạn. Ngày 04/01/1964, Đại hội thống nhất Phật giáo Việt Nam được tổ chức tại chùa Xá Lợi – Sài Gòn. Nhận lời mời của Hòa thượng Thích Tâm Châu, Chủ tịch Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo, Trưởng ban Tổ chức Đại hội, phái đoàn Phật giáo Khất Sĩ Việt Nam tham dự Đại hội với tư cách quan sát viên. Tăng đoàn có: TT. Giác Nhiên, TT. Giác Luận, TT. Giác Đạo, TT. Giác Đăng, TT. Giác Tâm. TT. Giác Lý, TT. Giác Nguyên, TT. Giác Hậu, TT. Giác Định, TT. Giác Thọ, TT. Giác Đức; Ni đoàn có: Ni sư Huỳnh Liên, NS. Thanh Liên, NS. Diệu Liên, NS. Minh Liên. Sự hiện diện của phái đoàn Phật giáo Khất Sĩ Việt Nam đã chia sẻ đồng tình với sự thống nhất Phật giáo Việt Nam, tuy nhiên vẫn giữ vị trí là một tổ chức Giáo phái độc lập. Nhưng nhờ chất xúc tác của phong trào thống nhất Phật giáo, hình thành các tổ chức Phật giáo có quy củ nên năm 1966 các Ngài Giác Tường, Giác Nhu, Giác Nhiên đứng đơn xin thành lập Giáo hội Tăng-già Khất Sĩ Việt Nam và được Bộ Nội vụ Chính phủ Việt Nam Cộng hòa cho phép tại Nghị định 405/BNV/KS, Sài Gòn ngày 20/4/1966, do Thẩm phán Trần Minh Triết (GS. Nguyễn Văn Tương) ký. Trong Nghị định có đoạn: “Giáo hội Tăng-già Khất Sĩ Việt Nam, trụ sở đặt tại Tịnh xá Trung Tâm, số 98 đường Nguyễn Trung Trực (Gia Định) được phép thành lập và hoạt động đúng theo bản điều lệ Hội được duyệt y đính kèm theo Nghị định nầy và trong quy chế Hiệp hội”.

Năm 1972, khi chiến tranh leo thang, ước vọng hòa bình của nhân dân miền Nam, trong đó có Phật giáo Việt Nam càng cao độ. Thực hiện thông điệp của Đức Tăng thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) - Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, nhân mùa Phật đản, Liên Tôn giáo phái tổ chức Đại lễ Phật đản qui mô lần thứ hai sau năm 1964 tại Công trường Ngã Bảy (Vườn Lài), với sự tham gia của các Giáo phái Phật giáo như Nam tông, Bắc tông và Khất Sĩ, góp phần cầu nguyện cho đất nước hòa bình độc lập, dân chủ, tự do.

Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất Tổ quốc, năm 1976, Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước TP. Hồ Chí Minh ra đời do Hòa thượng Thích Minh Nguyệt làm Chủ tịch, Hệ phái Khất Sĩ (do TT. Giác Toàn, NS. Huỳnh Liên làm Ủy viên Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước TP. Hồ Chí Minh) đã sớm hòa mình cùng tổ chức Phật giáo trong giai đoạn mới cho đến khi thống nhất Phật giáo cả nước.

Năm 1980, trước tình hình chính trị xã hội đã quy về một mối, các tổ chức Giáo hội, Hệ phái Phật giáo cũng phải thống nhất, nên Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam được thành lập do Hòa thượng Thích Trí Thủ - Viện trưởng Viện Hóa đạo GHPGVNTN làm Trưởng Ban vận động; TT. Giác Toàn, NS. Huỳnh Liên làm Ủy viên Thường trực Ban Vận động.

Tại Đại hội thống nhất Phật giáo Việt Nam ngày 07/11/1981, TT. Giác Toàn thay mặt đoàn Phật giáo Khất Sĩ Việt Nam trình bày tham luận tại Đại hội: “… Hôm nay, Phật giáo cả nước hòa mình theo hướng đi lên của dân tộc, thực hiện thống nhất để tạo nên một ý chí, một sức mạnh, một tinh thần tiếp nối tiền nhân, đóng góp phần mình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng thực sự được no cơm ấm áo, hạnh phúc tự do, vinh quang và giàu mạnh. Sự hội nhập nầy, sự đoàn kết nầy là niềm vui chung của Phật giáo Việt Nam, trong đó có Giáo phái Khất Sĩ chúng tôi. Vì đây là lần đầu tiên Giáo phái chúng tôi được chính thức có mặt tham dự Hội nghị thống nhất Phật giáo cả nước v.v… ”

Trải qua gần 7 nhiệm kỳ, đại diện cho thành viên sáng lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN), chư vị Hòa thượng (HT), Thượng tọa (TT), Đại đức (ĐĐ) Tăng Ni Hệ phái Khất Sĩ đã tham gia các cấp Giáo hội:

+ Hội đồng Chứng minh (HĐCM): HT. Giác Nhu, HT. Giác Nhường – Phó Pháp chủ; HT. Giác Trang, HT. Giác Tường, HT. Giác Phúc, HT. Giác Dũng, HT. Giác Ngộ, HT. Giác Lai, HT. Giác Cầu, HT. Giác Tràng – Thành viên Hội đồng Chứng minh.

+ Hội đồng Trị sự (HĐTS): HT. Giác Nhu, HT. Giác Toàn – Phó Chủ tịch; HT. Giác Dũng, HT. Giác Phúc, HT. Giác Giới – Uỷ viên Thường trực, Phó ban Tăng sự Trung ương; HT. Giác Chí, TT. Giác Nhân, TT. Minh Thành, TT. Giác Pháp, TT. Minh Bửu, TT. Giác Sơn, ĐĐ. Giác Hoàng; Ni giới: Ni trưởng (NT) Huỳnh Liên, NT. Ngoạt Liên – Uỷ viên Thường trực; NT. Tạng Liên, NT. Tràng Liên, NS. Tín Liên, NS. Hòa Liên, NS. Phụng Liên, NS. Tuệ Liên - Ủy viên HĐTS.

Đồng thời, chư Tôn đức Tăng Ni Hệ phái Khất Sĩ còn tham gia các Ban ngành Viện Trung ương Giáo hội, Học viện Phật giáo Việt Nam… và tham gia Ban Trị sự Phật giáo cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Ban Trị sự Phật giáo cấp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các cơ sở khác của Giáo hội (34 tỉnh thành phía Nam).

Trong hệ thống tổ chức cơ sở Giáo hội, cả nước có 1.395 vị Tăng, 1.863 vị Ni; tịnh xá Tăng có 264 cơ sở; tịnh xá Ni có 286 cơ sở. Tín đồ Khất Sĩ có khoảng 500.000 người.

+ Trụ sở (Tổ đình) của 6 Giáo đoàn Tăng:

- Giáo đoàn I: Tổ đình Tịnh xá Ngọc Viên, TP. Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long.

- Giáo đoàn II: Tịnh xá Ngọc Đăng, quận Bình Thạnh, TP. HCM.

- Giáo đoàn III: Tịnh xá Ngọc Tòng, TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.

- Giáo đoàn IV: Tịnh xá Trung Tâm, quận Bình Thạnh, TP. HCM.

- Giáo đoàn V: Tịnh xá Trung Tâm, Quận 6, TP. HCM.

- Giáo đoàn VI: Tịnh xá Lộc Uyển, Quận 6, TP. HCM.

- Trụ sở của Ni giới Hệ phái Khất Sĩ: Tổ đình Tịnh xá Ngọc Phương, quận Gò Vấp, TP. HCM.

+ Công tác Đào tạo:

Hệ phái Khất Sĩ Việt Nam đã đóng góp phần lớn cho công tác đào tạo nhân tài cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam như đã hoàn tất học vị Tiến sĩ có khoảng 30 vị; 30 vị có học vị Thạc sĩ, trên 100 Tăng Ni có trình độ cử nhân Phật học và hàng trăm Tăng Ni tốt nghiệp Trung cấp, Cao đẳng Phật học, hiện đang phục vụ trong các hoạt động GHPGVN các cấp.

+ Công tác Từ thiện xã hội: Thực hiện nhiều chương trình từ thiện trong thời gian qua ước tính hàng trăm tỷ đồng.

IV. Khẳng định vị thế trong lòng GHPGVN

Theo Hiến chương GHPGVN quy định: “Các truyền thống Hệ phái Phật giáo, pháp môn tu học biệt truyền đúng Chính pháp thì được tôn trọng, duy trì”. Do đó, với tư cách là một thành viên sáng lập, ngoài trách nhiệm thực hiện và phát triển ngôi nhà chung GHPGVN theo như Hiến chương và chương trình hoạt động của Giáo hội, Hệ phái Khất Sĩ đã thực hiện hữu hiệu phương châm hoạt động: “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội” trong thời kỳ hội nhập và phát triển toàn cầu.

Hệ phái Khất Sĩ còn nỗ lực duy trì truyền thống sinh hoạt Hệ phái theo giáo lý biệt truyền do Tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng, thuyết minh và truyền thụ, làm cho Tông phong pháp phái, Tổ ấn vàng son, mãi mãi quang vinh và góp phần phát triển nền đạo giáo Việt Nam vốn đã phong phú càng thêm phong phú và khởi sắc, để từ đó vườn hoa đạo pháp mãi mãi xinh tươi đẹp đẽ cùng non sông gấm vóc, xã hội phồn vinh, văn minh tiến bộ, như Cổ đức nói:

“Hoa đời, hoa đạo đua nhau nở

Mãi mãi ngàn sau vẫn ngát hương”

“Gương xưa biết mấy nhiêu đàng

Bây giờ xem lại rõ ràng là đây”.

Bằng tinh thần đoàn kết hòa hợp, Hệ phái Khất Sĩ Việt Nam, thành viên GHPGVN sẽ tăng cường đạo lực, trưởng dưỡng đạo tâm, trang nghiêm Giáo hội, phát triển vững mạnh, đồng hành cùng dân tộc trong hiện tại và tương lai.

 

Tài liệu tham khảo:

Kỷ yếu Đại hội GHPGVNTN (1964)

Kỷ yếu Đại hội GHPGVN (1981)

Kỷ yếu Hội thảo 30 năm thành lập GHPGVN (1981 - 2011)

Ánh Minh Quang (2007)

Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam – Hàn Ôn (1956)

Tìm hiểu Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam Nam Bộ thế kỷ XX (Thích Hạnh Thành, năm 2006)

Sự hình thành và phát triển Giáo phái Khất Sĩ Việt Nam (Thích Giác Trí, 2001)

Địa chí Văn hóa Tín ngưỡng TP. Hồ Chí Minh, tập 3 (TS. Trần Hồng Liên)

 

giaohoiphatgiaovietnam

    Chia sẻ với thân hữu:
    In bài viết:

Các bài viết liên quan