CHÀO MỪNG QUÝ VỊ ĐÃ GHÉ THĂM TRANG NHÀ. CHÚC QUÝ VỊ AN VUI VỚI PHÁP BẢO CAO QUÝ !

TP.HCM: Thượng tọa Giác Hoàng giảng về “Tứ Niệm Xứ” tại trường hạ Pháp Viện Minh Đăng Quang

Trong khuôn khổ khóa ACKH PL.2569 – DL.2025, chiều 25/6/2025 (1/6/Ất Tỵ), TT. Giác Hoàng – Ủy viên HĐTS, Phó Viện trưởng Viện NCPHVN, Phó Trưởng ban Văn hóa TƯGH, Chánh Thư ký Ban Thường trực Giáo phẩm Hệ phái, đã có chuyến thăm và chia sẻ cùng chư hành giả an cư tại trường hạ Pháp viện Minh Đăng Quang (TP.Thủ Đức, TP.HCM) về “Lộ trình tu học Tứ Niệm Xứ”.

Mở đầu buổi pháp thoại, TT. Giác Hoàng nhấn mạnh tầm quan trọng tối thượng của Tứ Niệm Xứ – lời dạy gốc của Đức Thế Tôn dành cho những ai đang nuôi chí cầu đạo, mong vượt qua sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí và chứng ngộ Niết-bàn. Thượng tọa nhắc chư hành giả nắm vững lời kinh Niệm Xứ số 10 thuộc Trung Bộ Kinh, trong đó Đức Phật khẳng định:

Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ. Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời”.

Từ lời dạy ấy, TT. Giác Hoàng lần lượt triển khai các phương pháp thực tập:

  1. Niệm Thân (kāyānupassanā)

Thượng tọa hướng dẫn hành giả đưa tâm trở về với thân, quán sát từng oai nghi, từng hơi thở, từng động tác nhỏ nhiệm trong đời sống hàng ngày, như chính ý nghĩa của từ “niệm thân”: quán niệm về thân thể, đưa tâm chánh niệm trở về với thân, quán sát và nhận diện thân thể trong từng giây phút hiện tại, như chính nó đang là, không xen lẫn vọng tưởng hay thành kiến.

Theo kinh Satipaṭṭhāna (Kinh Niệm Xứ), Thượng tọa chỉ rõ cách thực hành niệm thân qua sáu phương diện:

  • Quán thân qua hơi thở (Anapanasati): chú niệm vào hơi thở vào - ra, biết rõ toàn thân, làm an tịnh thân hành.
  • Quán các oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi – biết rõ thân đang trong oai nghi nào.
  • Quán các hành động nhỏ: như co tay, duỗi tay, ăn, mặc, v.v., đều tỉnh thức biết rõ.
  • Quán thân bất tịnh: quán tưởng thân thể là do các yếu tố bất tịnh hợp thành (tóc, móng, da, xương, v.v.).
  • Quán thân theo tứ đại: đất, nước, lửa, gió – thấy thân chỉ là tổ hợp của các yếu tố vật chất.
  • Quán thân trong sự hoại diệt: thiền quán về sự phân hủy của xác thân sau khi chết để thấy rõ tính vô thường.

TT. Giác Hoàng chỉ rõ, niệm thân mang lại nhiều lợi ích cho hành giả như: Phát triển chánh niệm trong đời sống hàng ngày; Làm giảm tham ái, chấp ngã đối với thân thể; Tạo nền tảng cho thiền định và trí tuệ (tuệ giác); Dẫn đến giải thoát khỏi khổ đau do bám víu vào thân xác.

  1. Niệm Thọ (vedanānupassanā)

Thượng tọa cho biết, niệm thọ là sự quán sát và nhận biết rõ ràng các cảm thọ (cảm giác) đang sinh khởi trong thân tâm, để thấy rõ bản chất vô thường, khổ và vô ngã của chúng. Trong đó, “thọ” nghĩa là cảm thọ, những gì chúng ta cảm nhận được qua thân hoặc tâm. Có ba loại cảm thọ chính:

  • Lạc thọ: cảm giác dễ chịu (vui, khoái lạc, an lạc…)
  • Khổ thọ: cảm giác khó chịu (đau đớn, buồn rầu, nóng giận…)
  • Xả thọ: cảm giác trung tính (không vui, không buồn – thờ ơ, bình thường)

Lợi ích của niệm thọ giúp hành giả phát triển chánh niệm và tỉnh giác, làm suy yếu sự phản ứng máy móc của tham ái và sân hận, dẫn đến sự tự do nội tâm, không bị cảm giác lôi kéo. Đồng thời, niệm thọ cũng là nền tảng để phát sinh tuệ giác về vô thường – khổ – vô ngã.

  1. Niệm Tâm (cittānupassanā)

TT. Giác Hoàng chỉ rõ, “niệm tâm” là quan sát trực tiếp trạng thái tâm của chính mình ngay trong lúc đó. Chỉ cần biết rõ, không phán xét, không can thiệp, không đồng hóa. Theo đó, các trạng thái tâm căn bản gồm:

  • Tâm có tham / không tham
  • Tâm có sân / không sân
  • Tâm có si / không si
  • Tâm bị thu nhiếp / không bị thu nhiếp
  • Tâm định / tâm tán loạn
  • Tâm quảng đại / tâm hẹp hòi
  • Tâm cao thượng / tâm thấp hèn
  • Tâm giải thoát / tâm còn bị trói buộc

Lợi ích của niệm tâm giúp hành giả nhận ra sự biến đổi không ngừng của tâm, tránh đồng hóa bản thân với tâm trạng (ví dụ: thay vì “Tôi giận”, ta chỉ thấy “Tâm đang có sân”). Từ đó, làm yếu dần các trạng thái tiêu cực như tham - sân – si, đồng thời tăng trưởng chánh niệm, định tâm và tuệ giác. Đây cũng là một bước tiến quan trọng trong thiền tuệ (vipassanā), hướng đến giải thoát.

  1. Niệm Pháp (dhammānupassanā)

Niệm pháp là quan sát các pháp (hiện tượng, tiến trình tâm lý) đang sinh khởi trong thân và tâm một cách trực tiếp, khách quan, không dính mắc. Ở đây, Thượng tọa chỉ rõ, “pháp” không chỉ là giáo lý, mà còn là các yếu tố tinh thần như: ngũ triền cái, ngũ uẩn, lục căn – lục trần, thất giác chi, tứ diệu đế…

Thượng tọa dẫn dắt chư hành giả quán sát các pháp đang hiện diện: năm triền cái (dục, sân, hôn trầm, trạo cử, hoài nghi), năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), sáu căn sáu trần (Mắt – Sắc; Tai – Âm thanh; Mũi – Mùi; Lưỡi – Vị; Thân – Xúc chạm; Ý – Pháp trần), bảy giác chi (7 yếu tố dẫn đến giác ngộ: Niệm (chánh niệm); Trạch pháp (phân tích đúng sai); Tinh tấn (nỗ lực); Hỷ (niềm vui trong tu tập); Khinh an (an tịnh nhẹ nhàng); Định (tâm an trú); Xả (buông xả, không dính mắc)), Tứ Diệu Đế (khổ, tập, diệt, đạo). Mỗi pháp được nhận diện đúng như thực, để thấy rõ bản chất vô thường, khổ, vô ngã và từ đó phát sanh trí tuệ giải thoát.

Cuối bài chia sẻ, Thượng tọa khẳng định lại một lần nữa tầm quan trọng của lộ trình tu tập Tứ Niệm Xứ qua trích dẫn lời Đức Thế Tôn trong kinh Niệm Xứ: “Này các Tỷ-kheo, vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong bảy năm, sáu năm, một tháng, nửa tháng, thậm chí chỉ cần 7 ngày  vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ”.

Khép lại buổi pháp thoại, TT. Giác Hoàng ân cần thăm hỏi sức khỏe, sự tu học của đại chúng và không quên sách tấn: “Các huynh đệ hãy nhiệt tâm, tinh cần tinh tấn, thắng phục tâm ý, làm lành, nhớ tưởng đạo lý, nhất tâm đại định và vui chịu với mọi cảnh ngộ”. Sự khiêm cung của Thượng tọa thể hiện qua lời bày tỏ không nhận mình là bậc thầy mà chỉ là pháp lữ, đến chia sẻ kinh nghiệm tu học dưới sự chỉ dạy của chư Tôn đức Giáo phẩm.

 

Một số hình ảnh được ghi nhận:

    Chia sẻ với thân hữu:
    In bài viết:

Các bài viết liên quan