CHÀO MỪNG QUÝ VỊ ĐÃ GHÉ THĂM TRANG NHÀ. CHÚC QUÝ VỊ AN VUI VỚI PHÁP BẢO CAO QUÝ !

Trụ trì và vai trò quản lý tịnh xá

1. DẪN NHẬP

Khi nói về cặp phạm trù đời và đạo, thì ta phải nhìn nhận rằng đạo, đời đều là tạm nói, chứ cuộc sống vốn không thể chia chẻ:

Sự duyên thì đạo khác đời

Lý chơn đời, đạo không rời, không xa.

Về sự duyên thì đạo là Tam Bảo, là chùa chiền, là tịnh xá đạo tràng… Để liễu tri được những sự duyên này cũng không hề đơn giản. Làm thế nào để gìn giữ và phát triển một đạo tràng, đây là một đề tài rất thiết thực cho chư Tăng, Ni trong hòan cảnh xã hội ngày nay. Nó thuộc về lĩnh vực quản lý tự viện, là một hoạt động chuyên môn mà mỗi tu sĩ Phật giáo cần phải hiểu biết.

Trong cả ba dòng Phật giáo Bắc tông, Nam tông và Khất sĩ tại Việt Nam nói chung, trong giáo trình của Học Viện Phật Giáo Việt Nam nói riêng, các vấn đề quản lý tự viện chưa được triển khai đầy đủ thành một chủ đề chuyên môn. Khi giảng dạy về một chuyên đề Tự viện quản trị học ở Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh, HT. Thích Thiện Tâm đã nhận xét như sau: “Quản lý tự viện học là môn học khá mới mẻ tại Việt Nam, xưa nay chưa ai đề cập đến, chưa có ai nghiên cứu và chưa được giảng dạy tại các trường Phật học nước ta.”[1]

Với một bài viết ngắn nói về “Trụ trì và vai trò quản lý tịnh xá”, không gì hơn, chúng tôi muốn đóng góp chút ít tâm huyết cho việc nghiên cứu nghiêm túc về lĩnh vực quản lý tự viện. Mong rằng bài viết này có thể đáp ứng phần nào cho một nhu yếu quan trọng của hàng Tăng, Ni.

2. TRỤ TRÌ

Vị Trụ trì là một Tăng sĩ chịu trách nhiệm điều hành một tự viện, tịnh xá. Trụ trì do Giáo hội bổ nhiệm, thông qua đề xuất của Hệ phái và sự đồng thuận của quý cơ quan chức năng.

Theo quy định hiện nay của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, vị trụ trì phải là một Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo ni đã tốt nghiệp ít nhất là Trung cấp Phật học. Dĩ nhiên người ấy phải có đạo đức tốt và phải biết cách quản lý tự viện.

Đối với Hệ phái Khất Sĩ, từ 1960 – 1975, thời gian trụ xứ là ba tháng và do Ban Trị sự Giáo đoàn phân công. Từ 1976 đến nay, gần 32 năm chưa đổi trụ xứ, bởi vì truyền thống du phương hành đạo của Hệ phái đã không áp dụng được trong hoàn cảnh xã hội mới.

3. VAI TRÒ TRỤ TRÌ

Trong bài “Luật Khất Sĩ”, Tổ sư Minh Đăng Quang đã dạy một số sinh hoạt tại tịnh xá như sau:

… Tại chùa: Những ngày ba mươi, rằm, mùng tám, hai mươi ba, các sư có nói pháp cho cư gia, mỗi ngày phải học luật, sám hối, làm công, học pháp từ 3 giờ tới 4 giờ chiều. Mỗi buổi sáng phải đi khất thực từ 8 giờ đến 9 giờ. Trưa 11 giờ độ cơm và đọc kinh tới 1 giờ; khuya, chiều, sáng lo tu tịnh.

Tại chùa: Các sư còn có phận sự phải dạy học chữ Quốc ngữ (Hán Việt và Nôm Việt cho tập sự kém chữ), hoặc dịch sách in kinh cho Giáo Hội Tăng Già đi du hành, và dạy cho bá tánh sự tu tập.

Tăng chúng phải giữ thứ lớp trật tự màu sắc y bát đồ vật cho giống nhau. Những ai muốn đi tách riêng tìm chỗ vắng tu tịnh, phải có lịnh Giáo hội cho phép và xem xét kỹ lưỡng, phải cho được trên hai năm thọ đại giới, phải có đủ hạnh, phải chịu khổ cực mới được...

… Tại chùa, các sư không đi đám tụng kinh; thỉnh thoảng vì tình cận sự của cư gia, các sư đến thăm bịnh, để nói pháp an ủi mà thôi. Khi có trai tăng, cầu siêu các sư mới đọc kinh chú nguyện! Thường ngày thì các sư đọc kinh cầu nguyện chung cho tất cả chúng sanh sau buổi cơm ngọ, khi rảnh các sư đọc học kinh để mở trí tham thiền. Và luôn luôn chú nguyện cho chúng sanh trong mỗi lúc, để mở mang trí huệ và tập tâm từ bi tinh tấn.

Sư trị sự ở tại chùa: Có phận sự phải thâu cất giữ y bát, đồ vật dụng cho Giáo hội, lo sắp đặt chỗ nơi cho các sư ở xa mới tới, và chỉ bảo cách cúng kiếng cho cư gia, sắp đặt trật tự cho Giáo hội. Ở tại chùa khi nào có công việc làm nhiều, nên chi ai đem đến dâng đồ điểm tâm sáng thì các sư được dùng, bằng không có là thôi, chớ không tự nấu luộc, không được hỏi xin.

Các sư lữ hành đi đường xa khi bịnh yếu cũng được như vậy. Bởi ăn đồ chay thiếu chất bổ, nên chi buổi sáng, nếu có cư gia đem đến hộ, thì các sư cũng được dùng, vì sự ăn chay đi bát ít ai cúng được thức ăn tử tế. Ấy bởi sự bất cập của bá tánh mà phần nhiều các sư chỉ nhận được bánh trái đơn sơ, không đủ sức khỏe cho lâu ngày. Vậy nên buổi sáng không cấm hẳn, nhưng vị sư nào nhịn không độ sáng thì lại tốt hơn, vì để rảnh trí tham thiền. Còn những ai làm công việc nhiều, dùng thêm buổi sáng thì khi nào có mới độ, không thì thôi; chớ chẳng đặng để dành đồ ăn cách đêm.

Trong Giáo hội Tăng già: Ở tại chùa phân chia theo ngăn ranh thứ tự:

Tập sự ở theo phía tập sự.

Khất sĩ ở chung theo phía Khất sĩ…[2]

Trong trích dẫn trên, chúng ta rút ra được một số ý như sau:

- Tổ sư quy định về bốn ngày cúng hội vào mùng 8, rằm, 23 và 30 hàng tháng. Cúng hội là truyền thống tốt đẹp do Tổ sư đề ra. Cúng hội là dịp để tứ chúng gặp gỡ, cùng tu pháp lục hòa, hàng cư gia cúng dường tài vật, còn hàng Khất sĩ bố thí pháp, cũng là dịp để các thiện nam tín nữ trở về đạo tràng lễ bái Tam Bảo, sám hối, cầu nguyện…

- Hằng ngày, Tăng Ni Khất Sĩ tu tập theo thời khắc biểu Niết-bàn (trú dạ lục thời), trong đó có ba thời tu thiền định. Thời khắc biểu này được nêu rõ ở một trang khác như sau:

5 giờ - 6 giờ sáng: thiền định

8 giờ - 9 giờ sáng: khất thực

11 giờ - 12 giờ trưa: thực thời

3 giờ - 4 giờ chiều: thuyết pháp

6 giờ - 7 giờ chiều: thiền định

12 giờ - 1 giờ khuya: thiền định.[3]

- Nội dung tu tập và sinh hoạt được triển khai từ giới – định – tuệ, cũng chính là điều chúng ta thường nói: phước huệ song tu.

- Tăng Ni Khất Sĩ không đi đám cầu siêu. Thay vào đó, chư Tăng Ni có thể đi thăm bệnh để nói pháp an ủi các người cận sự, và hàng ngày luôn chú nguyện chung cho chúng sanh.

- Bởi vì Tổ sư chủ trương cho chư Tăng Ni du phương học và hành đạo, nên tịnh xá chỉ có vị sư tri sự, là người trông nom tịnh xá trong khoảng ba tháng thôi.

Với trách nhiệm điều hành mọi Phật sự tại tịnh xá đạo tràng, vị trụ trì phải tổ chức duy trì những sinh hoạt tu tập thường nhật nói trên. Dĩ nhiên vị trụ trì phải biết phối hợp với đại chúng Tăng-già để thực hiện trọng trách của mình.

Một vị trụ trì có những trách nhiệm cụ thể như trông nom cơ sở vật chất, tạo mọi điều kiện tu học tốt cho chư Tăng Ni ở đạo tràng, tổ chức và hướng dẫn tu tập cho bá tánh cư gia, giữ gìn mọi mối quan hệ thân thiện với các tổ chức quần chúng, các đoàn thể xã hội…

Về cơ sở vật chất, có những việc như xây dựng cái mới, trùng tu cái cũ, trang nghiêm nơi thờ tự và khuôn viên tịnh xá… Để tạo mọi điều kiện tu học tốt cho chư Tăng Ni ở đạo tràng, vị trụ trì phải sáng suốt, tế nhị và khéo léo. Hiểu và giúp đỡ được một người đã khó, huống chi là cả một hội chúng. Ngày nay, các đạo tràng thường tổ chức cho hàng cư sĩ tu Bát quan trai, tọa thiền, niệm Phật, học giáo lý căn bản, hay cứu trợ đồng bào bị thiên tai… Còn vấn đề ngoại giao thì dù muốn hay không, một vị trụ trì cũng phải đảm đương rồi.

Trên đây là liệt kê một số công việc của trụ trì tịnh xá. Làm những việc này là công hạnh của trụ trì, là thay mặt Tăng làm việc Tăng. Câu nói “Trụ Pháp vương gia, trì Như Lai tạng” có nghĩa là ở nhà Phật, giữ kho Pháp. Đó là việc chung của Tăng-già, nên cũng là việc của mỗi vị trụ trì vậy.

4. TẠM KẾT

Trụ trì không nhất thiết phải là người cao hạ nhất tại tịnh xá. Nhưng dĩ nhiên để làm được công việc trụ trì thì một nhà sư, một sư cô phải có đức độ, có uy tín trong chúng, để chúng có niềm tin và chịu phục tùng vị trụ trì của họ. Và trong xã hội hiện đại ngày nay, với khoa học kỹ thuật tiến bộ vượt bậc, điều kiện xã hội luôn thay đổi, con người có nhiều vấn đề về tâm sinh lý… thì người làm trụ trì lại cần phải có trí tuệ, có kinh nghiệm giải quyết công việc, cũng như biết nương vào oai lực của Tam Bảo mà hóa giải những nỗi khổ niềm đau của nhân sinh.

Muốn tìm hiểu về chức năng và vai trò trụ trì tự viện, điều căn bản nhất là cần phải tìm hiểu trong Luật tạng, từ đó liên hệ đến hoàn cảnh thực tế. Cái gọi là “Tự viện quản trị học” thật ra chỉ là danh xưng mới của một số nội dung đã được Đức Phật và chư Tổ thiết lập trong Luật tạng, cũng như đã được các thế hệ thầy trò ở các chùa truyền thừa nhau. Do vậy, điều cần thiết là gom những nội dung đó lại trong một chuyên đề để dễ nắm bắt và ứng dụng mà thôi.

Đến đây, chúng ta nhận thấy rằng Giáo hội cần phải tổ chức đào tạo trụ trì. Dĩ nhiên là trong Giáo hội xưa nay đã có những bậc thầy để tâm làm việc này, với tính cách là đào tạo người kế thừa. Mà như thế là chỉ mới ở tầm vóc cá nhân, chứ chưa có sự đồng bộ, sự chuyên môn. Chúng ta cần phải chuẩn bị những ý thức cũng như những hiểu biết tốt cho Tăng, Ni trẻ và nâng cao hiệu quả hoạt động tại mỗi tịnh xá, tự viện, qua đầu tàu là người trụ trì tịnh xá, tự viện đó.


[1] HT. Thích Thiện Tâm, chuyên đề “Đề cương môn Tự viện quản trị học” (Học Viện PGVN tại TP. HCM, 2007).

[2] Tổ sư Minh Đăng Quang, Luật nghi Khất sĩ, “Luật Khất sĩ”, Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ Việt Nam, 1973, tr. 43-47.

[3] Ibid., tr. 39.

    Chia sẻ với thân hữu:
    In bài viết:

Các bài viết liên quan