Gia Lai: Thượng tọa Giác Tri chia sẻ về lịch sử Phật giáo Việt Nam trong ngày cuối của khóa “Sống chung tu học” lần thứ 21

Trong ngày cuối của khóa “Sống chung tu học” lần thứ 21 do Ni giới GĐ.III PGKS tổ chức, sáng 15/10/2025 (24/8/Ất Tỵ), TT. Giác Tri – Phó ban Văn hóa GĐ.III PGKS, đã chia sẻ về lịch sử Phật giáo Việt Nam, một di sản quý báu và là nguồn cảm hứng tu học cho hàng Tăng Ni, Phật tử.

Khái quát về lịch sử Phật giáo Việt Nam, TT. Giác Tri cho biết, theo sử liệu, Phật giáo đã truyền vào Việt Nam từ khoảng thế kỷ thứ hai, trước hoặc sau Công nguyên. Giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng hai Phật tử Việt Nam đầu tiên chính là Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Sau khi cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại, nhiều tướng lĩnh lui về cửa Phật xuất gia, cho thấy Phật giáo đã truyền vào Việt Nam từ rất sớm.

Trải qua 1.000 năm Bắc thuộc, dân tộc vẫn giữ vững bản sắc, cho đến chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền, nền độc lập được phục hồi, mở đầu cho thời kỳ phục hưng văn hóa, mà Phật giáo là một phần trong đó.

TT. Giác Tri chỉ rõ, trong khoảng 70 năm đầu độc lập dưới ba triều Ngô - Đinh - Tiền Lê, Phật giáo chính thức trở thành tư tưởng chủ đạo của quốc gia. Giữa ảnh hưởng của Khổng giáo và Lão giáo, Tổ tiên đã lựa chọn Phật giáo làm nền tảng xây dựng đất nước. Theo Thượng tọa, đây là một quyết định sáng suốt và đầy trí tuệ.

Giai đoạn này xuất hiện các bậc Thiền sư đại trí, vừa là cao tăng đạo hạnh, vừa là cố vấn chính trị kiệt xuất, điển hình là Thiền sư Pháp Thuận và Thiền sư Khuông Việt (Ngô Chân Lưu). Cùng với đó là sự hình thành của hai dòng thiền: Tỳ-ni-đa-lưu-chi (thế kỷ VI) và Vô Ngôn Thông (thế kỷ IX), đặt nền móng cho Phật giáo bản địa phát triển sau này, như Trúc lâm Yên Tử.

Nhấn mạnh về Thiền sư Pháp Thuận, một bậc trí giả xuất chúng thuộc dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi đời thứ 10, TT. Giác Tri khẳng định: “Dù Thiền sư chỉ để lại hai bài thơ (thực chất là một bài rưỡi), nhưng di sản ấy đã trở thành chứng tích lịch sử, khẳng định trí tuệ Phật giáo, góp phần giữ vững nền độc lập dân tộc trong giai đoạn ấy”.

Hai bài thơ được TT. Giác Tri nhắc đến là bài thơ đối đáp với sứ thần Lý Giác và một bài là “Quốc Tộ” (vận nước). Theo đó, hoàn cảnh dẫn đến bài thơ đối đáp, là khi Thiền sư giả làm người lái đò để thử lòng sứ giả nhà Tống. Khi bị hỏi vần thơ, Ngài ứng đối như gươm sắc, phủ định ý niệm thần phục thiên triều, khẳng định sự tự tại của non sông Đại Việt. Lý Giác lúc ấy đầy kinh ngạc, cảm thán rằng: “Ngay cả kẻ chèo đò của Đại Việt còn đối thơ như thế, thì bậc trí giả trong triều sẽ cao thâm đến mức nào?”.

Ở bài thơ thứ hai – Quốc Tộ, là khi Thiền sư Pháp Thuận khuyên Vua Lê Đại Hành hãy lấy đoàn kết làm sức mạnh và lấy đạo lý Phật giáo làm căn bản cai trị thì nơi nơi sẽ dứt đao binh. Qua sự phân tích chi tiết từng câu trong bài thơ, TT. Giác Tri nhận định: “Đây không chỉ là lời khuyên trị quốc, mà còn là lời sách tấn tu tâm cho tất cả hàng hậu học trong đời sống hôm nay. Sức mạnh đoàn kết là sức mạnh vô địch, nếu bị phá vỡ thì quốc gia sẽ suy yếu ngay. Cũng như vậy, tinh thần đoàn kết là bản thể của Tăng-già. Nếu trong một Tịnh xá hay tự viện có sự chia rẽ thì nơi đó sẽ không thể phát triển vững bền được”.

Liên hệ đến việc ứng dụng giá trị đạo đức và tư tưởng Phật giáo vào đời sống hằng ngày, Thượng tọa giảng giải, giống như Đức Phật, sau khi nhận ra thực tại sinh lão bệnh tử kéo theo sầu bi khổ ưu não, Người đã tìm con đường đạo. Việc học với hai vị Thầy Bà-la-môn, hay thực hành khổ hạnh, giúp Ngài nhận ra đều không phải là con đường ly tham và thành tựu thánh trí Niết-bàn. Do đó, việc tìm và ứng dụng phương pháp đúng (giáo pháp đúng) là cực kỳ quan trọng để đạt được an lạc và giải thoát. Song, một điều chắc chắn rằng, sự ứng dụng bất cứ tư tưởng Phật giáo nào vào đời sống tu tập, cũng sẽ giúp hành giả chấm dứt được phiền não khổ đau trong chính tự thân của mình.

Sơ lược về Thiền sư Khuông Việt (Ngô Chân Lưu), cháu đích tôn của vua Ngô Quyền và là Quốc sư đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, TT. Giác Tri cho biết, Ngài với tài đức viên mãn, đã dùng thi ca ngoại giao với bài thơ “Ngọc lăng quy” để khuất phục sứ thần, khiến nhà Tống nhiều năm sau không dám xâm phạm bờ cõi. Đây là bài thơ tiễn biệt Lý Giác, được coi là văn bản ngoại giao văn học đầu tiên của Đại Việt.

Kết thúc pháp thoại, TT. Giác Tri nhấn mạnh: “Người con Phật phải là người biết thừa tự giáo pháp. Học không phải để chất chứa tri thức, mà để thực hành, chuyển hóa phiền não, chứng đạt an lạc. Tổ tiên đã dùng Phật pháp để dựng nước, chúng ta ngày nay càng phải dùng Phật pháp để dựng tâm”.

 

Một số hình ảnh được ghi nhận: