Lâm Đồng: Trưởng lão Hòa thượng Giác Giới sách tấn chư hành giả khóa tu Truyền thống Khất sĩ lần thứ 38

Khóa tu Truyền thống Khất sĩ lần thứ 38 do GĐ.II đăng cai tổ chức tại Tịnh xá Trúc Lâm (xã Hàm Tân, tỉnh Lâm Đồng), đến nay đã bước vào ngày tu học thứ 8. Theo đó, trong ngày 30/10/2025 (10/9/Ất Tỵ), khóa tu tiếp tục cung đón sự quang lâm và sách tấn của Trưởng lão HT. Giác Giới – Phó Thư ký Ban Thường trực HĐCM GHPGVN, Giáo phẩm Chứng minh Hệ phái, Chứng minh GĐ.I PGKS, Trụ trì Tổ đình Minh Đăng Quang (tỉnh Vĩnh Long), Thiền chủ khóa tu, xoay quanh chủ đề “Giới - Định - Tuệ, tinh yếu tu học của người Khất sĩ”. Đây cũng đồng thời là chủ đề của khóa tu Truyền thống Khất sĩ trải suốt 15 năm qua.

Mở đầu buổi giảng, Trưởng lão HT. Giác Giới đã nhắc đến niềm kính trọng sâu sắc dành cho nếp sống Khất sĩ và khẳng định, sự tổ chức an cư kiết hạ của Tăng Ni Hệ phái ngày nay đã đi vào nền nếp kể từ khi GHPGVN được thành lập. Trước thời đất nước thống nhất, sinh hoạt an cư, đặc biệt tại GĐ.I PGKS, hầu như không diễn ra. Trong Chơn lý, Đức Tổ sư từng đề cập đến tình trạng an cư bấy giờ, hầu như chỉ mang tính hình thức, thiên về quy tụ đông đảo để tiện cho việc sinh kế.

Trưởng lão Hòa thượng cho biết, nguồn gốc của nếp sống an cư trong Hệ phái PGKS đã xuất hiện từ năm 1953, qua di cảo mà Tịnh xá Ngọc Phương còn lưu giữ. Đức Tổ sư lúc ấy đã tổ chức ba tháng “sống chung tu học” thể theo nếp an cư, tại Đạo tràng Tịnh xá Ngọc Quang (Sa Đéc). Tổ sư ghi lịch giảng rất rõ, ngày đầu Tổ giảng, những ngày sau Ni trưởng Đệ Nhất Huỳnh Liên giảng. Tuy ghi chép chỉ kéo dài ba tuần rồi để trống, điều này vẫn cho thấy tâm nguyện sâu dày của Tổ trong việc thiết lập nếp an cư, chỉ vì nhân duyên và điều kiện chưa đủ mà chưa thể hoàn mãn. Đặc biệt, việc tác pháp an cư thời ấy chịu ảnh hưởng Bắc truyền nên lấy mùng tám tháng tư làm ngày nhập hạ, khác với truyền thống Nam truyền hiện nay.

Ngày 7/11/1981, khi GHPGVN được thành lập, với sự tham dự của 9 hệ phái. Trong diễn văn khai mạc, Hòa thượng Minh Châu đã gom 9 hệ phái thành ba hệ lớn: Phật giáo Bắc truyền, Phật giáo Nam truyền và Hệ phái Khất sĩ. Theo Trưởng lão Hòa thượng, lúc ấy, Hệ phái Khất sĩ mới được sáng lập khoảng hơn 30 năm, nhưng đã có bản sắc riêng trong đời sống hành đạo. Từ đây, các sinh hoạt an cư, tu học, tổ chức Tăng Ni trong Hệ phái ngày càng đi vào ổn định và được đặt trong khuôn khổ chung của Giáo hội.

Để làm rõ giá trị pháp học và pháp hành của Hệ phái Phật giáo Khất sĩ, Trưởng lão HT. Giác Giới đã nhắc lại bối cảnh Phật giáo Việt Nam đầu thế kỷ XX. Thượng tọa Mật Thể trong Phật giáo Việt Nam sử lược từng xót xa rằng, Phật giáo “gần như tuyệt diệt”, trong khi đó, Hòa thượng Thiện Hoa cũng thốt lên rằng, đạo Phật khi ấy “gần như cáo chung”. Kinh điển rối rắm, sự cúng tế cầu đảo lan rộng, việc hành trì vốn thuần tịnh của Tăng Ni bị mai một.

“Trong tình cảnh ấy, Đức Tổ sư Minh Đăng Quang sau khi trải nghiệm cuộc đời đến tuổi 21 đã sang Campuchia, học cả hai truyền thống Tiểu thừa và Đại thừa, rồi chứng nghiệm Chánh pháp, sáng lập nên Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam, góp một dòng chảy mới trong công cuộc chấn hưng Phật giáo. Trong suốt quá trình hành đạo và hoằng dương giáo pháp, Tổ sư đã hình thành bộ Chơn lý gồm 69 đề mục. Đây chính là tinh hoa kết hợp giữa hai truyền thống Nam truyền - Bắc truyền và là pháp bảo của Hệ phái PGKS cho đến nay”, Trưởng lão Hòa thượng cho biết.

Trong những năm đầu thành lập Trường Cao cấp Phật học, Hòa thượng Minh Châu cũng đã phân loại Tăng Ni theo ba dòng chính: Bắc tông, Nam tông và Khất sĩ, Ngài xếp Nam tông Khmer thuộc Thượng tọa bộ, Bắc tông thuộc Đại chúng Bộ và Khất sĩ gần gũi với Nhất thiết hữu bộ.

Trưởng lão Hòa thượng giảng giải, 100 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, Phật giáo chia thành hai phái: Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ. Đến thời vua A Dục (200 năm sau), phân chia thành 20 bộ phái. Tổ Sư Minh Quang dung hòa tinh thần của cả hai truyền thống Tiểu thừa và Đại thừa, nên được nhận định là tương đồng với Nhất thiết hữu bộ.

Tuy Hệ phái PGKS đã có vị thế nhất định trong dòng tư tưởng chung của Phật giáo Việt nam, song, việc tìm hiểu, nghiên cứu kinh sách còn nhiều hạn chế. Trưởng lão Hòa thượng cho biết, sau năm 1975, kinh điển được dịch thuật phong phú hơn, với các hệ Hán tạng, Pali tạng, Luận tạng. Tuy nhiên, trong các mùa an cư tại Tịnh xá Trung tâm và Tịnh xá Ngọc Phương, dù cung thỉnh nhiều bậc danh Tăng giảng dạy, đại chúng vẫn cảm thấy rối rắm trước kho tàng kinh điển quá lớn rộng.

Sau nhiều thập kỷ hành đạo, Trưởng lão Hòa thượng cho biết, Tăng Ni Khất sĩ đã mong Tôn đức chỉ bày một pháp môn gọn gàng, dễ nắm, dễ hành trì giữa kho tàng kinh luận rộng lớn. Và Giới - Định - Tuệ chính là pháp tu đơn giản, thiết thực mà trọn vẹn nhất, chứa đủ tinh yếu của đường đạo. Năm 2009, Hệ phái đã đi đến thống nhất, lấy lời dạy của Đức Tổ sư: “Người Khất sĩ chỉ có ba pháp tu vắn tắt là Giới, Định, Huệ”, làm chủ đề khóa tu. Ba pháp ấy trở thành chiếc trục xoay của mọi khóa tu Truyền thống, là cốt lõi tu tập mà mỗi người Khất sĩ, từ Tỳ-kheo đến cư sĩ, đều phải mang theo trong đời sống hằng ngày.

“Không có Giới, tâm không thể an; không có Định, trí tuệ không thể phát sinh; và không có Tuệ, đường đạo không thể sáng rõ. Tổ dạy, việc hành trì Giới - Định - Tuệ không phải riêng người xuất gia, mà còn là phương tiện bảo hộ cho người cư sĩ khi đối diện đời sống vốn đầy biến động”, Trưởng lão Hòa thượng khẳng định.

Theo Trưởng lão Hòa thượng, mục đích của việc tu tập là đạt được Sơ quả Nhập lưu, dự phần vào dòng Thánh đạo, đi đến giác ngộ, giải thoát. “Tất cả đệ tử Phật (Tỳ-kheo, cư sĩ) phải có hạt giống Phật, mà hạt giống đó là chánh tri kiến. Người vô Sơ quả là người đã có chánh tri kiến, còn người chưa có chánh tri kiến thì tu hành chỉ là tu mù. Như vậy, để đạt được Sơ quả thì hành giả cần thực hành hai điều kiện Đức Phật dạy, đó là nghe pháp và khéo tác ý”, Hòa thượng nhận định.

Để minh chứng cho giá trị của pháp tu Giới - Định - Tuệ, Trưởng lão Hòa thượng dẫn lại tấm gương của Đức Nhị Tổ Giác Chánh, một trong ba vị được Tổ Thầy phó chúc trước khi viên tịch. Theo đó, “đạo hạnh của Đức Nhị Tổ là mẫu mực đến mức không ai bắt chước nổi, Ngài sống đều đặn và đều đặn cho đến khi xả bỏ báo thân. Mỗi sáng, Ngài tự vệ sinh và tự cạo tóc. Trì bình khất thực không sót ngày nào, cho đến khi chân đi không nổi nữa. Khi dùng cơm, Ngài luôn tụng một bài kinh. Ngài giữ nghiêm hạnh ăn của Đức Phật: Hạt cơm cuối chưa nát thì không nuốt, hạt cơm cuối chưa nuốt thì không xúc muỗng khác. Ăn xong, Ngài tự rửa bát, không phiền ai. Ngài thường ngồi thiền cả năm, thậm chí ngủ cũng ngồi”, Trưởng lão HT. Giác Giới khẳng định.

Bên cạnh đó, Trưởng lão Hòa thượng cũng cho biết, Đức Nhị Tổ thức dậy đúng 3 giờ sáng mỗi ngày, mở quyển Chơn lý đọc chậm rãi đến mức “thuộc lòng luôn cả quyển” và Ngài từng nói một câu giản dị nhưng đầy trí tuệ mà Trưởng lão HT. Giác Giới vẫn còn ghi khắc: “Đạo Phật không có gì hết: thân - khẩu - ý; tham - sân - si; giới - định - tuệ. Bao nhiêu đó là đủ tu rồi đó”.

Trưởng lão HT. Giác Giới giảng giải, Giới - Định - Tuệ chính là đạo đế, là phương pháp tu hành. Tuy nhiên, nếu hành giả không quán khổ, không hiểu tập, không thấy diệt thì không đủ động lực thiết tha để hành trì đạo. “Giống như người thấy bệnh nặng mới chịu uống thuốc, hành giả phải tuệ tri khổ, tuệ tri khổ tập, tuệ tri khổ diệt, tuệ tri con đường khổ diệt. Chỉ khi có chánh tri kiến về Tứ Thánh Đế, việc hành trì Giới - Định - Tuệ mới bền vững và mạnh mẽ”, Trưởng lão Hòa thượng khuyến tấn.

Trưởng lão Hòa thượng cũng phân tích rõ, bản chất các pháp thế gian là vị ngọt (ngọt đến mức khiến con người đam mê và gục ngã), nguy hiểm (vô thường, khổ não, vô ngã), xuất ly (hạnh phúc của buông bỏ). Như vậy, muốn ly tham, hành giả phải quán về sự nguy hiểm để tăng trưởng sự nhàm chán, đồng thời quán về sự xuất ly để nuôi lớn chí hướng từ bỏ. Đây mới chính là con đường mà Đức Thích-ca đã dùng để giáo hóa chúng sanh: bố thí, trì giới, cõi trời, nguy hiểm của dục, xuất ly,Tứ Thánh Đế.

Trưởng lão Hòa thượng dẫn lời các Tỳ-kheo thời Phật: “Chúng tôi sống phạm hạnh dưới Thế Tôn vì mục đích liễu tri khổ”, từ đó giải thích, liễu tri khổ không chỉ là biết khổ, mà là chấm dứt toàn bộ khổ đau. Và, chỉ có Phật cùng các bậc A-la-hán mới thật sự liễu tri khổ, ba bậc hữu học – Nhập lưu, Nhất lai, Bất lai – mới chỉ “có thể liễu tri”, đang trên đường hướng đến giải thoát hoàn toàn. Đặc biệt, Hòa thượng nhấn mạnh: “Chưa vào Sơ quả Nhập lưu, tu hành luống công đối với pháp siêu thế, tức chỉ tu mù. Pháp môn để vào Sơ quả chính là quán Năm uẩn vô thường - khổ - vô ngã, tu như vậy cho đến khi triệt tiêu các kiết sử, chứng A-la-hán”.

Tại khóa tu, một hành giả đã trình bạch câu hỏi về sự khác biệt giữa hai loại chánh tri kiến (hữu lậu và vô lậu) và được Trưởng lão Hòa thượng giảng giải: “Hữu lậu là còn nằm trong Tam giới, vô lậu mới đưa hành giả vượt khỏi Tam giới. Vô Sơ quả rồi tu là vô lậu, chưa vô Sơ quả thì tu vẫn là hữu lậu”.

Cuối thời pháp, Trưởng lão Hòa thượng nhắc lại lời dạy của Đức Phật về chuyển hóa nghiệp, khẳng định: “Người không tu thì như chén nước, nắm muối làm mặn ngay; ngược lại, người có tu thì như dòng sông, nắm muối không làm mặn được. Cũng như trong ví dụ ‘hai mũi tên’, Phật dạy, người không tu trúng hai mũi tên (đau đớn và đau khổ), người có tu (Đức Phật, A-la-hán) chỉ trúng một mũi tên (có đau đớn nhưng không có đau khổ). Như vậy, khổ là tất cả những gì bị phá hoại, tan rã, bất ổn, kể cả hỷ lạc của các tầng thiền, vì còn chấp thủ Năm uẩn”.

 

Một số hình ảnh được ghi nhận: