CHÀO MỪNG QUÝ VỊ ĐÃ GHÉ THĂM TRANG NHÀ. CHÚC QUÝ VỊ AN VUI VỚI PHÁP BẢO CAO QUÝ !

Vô ngã

GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT

Từ thuở sơ khai, con người đã cho rằng tất cả mọi sự vật hiện tượng đều do Thượng Đế an bài. Thượng Đế là đấng thần linh tối thượng, có thể ban ơn và giáng họa cho tất cả sinh linh. Con người là sản phẩm của Thượng Đế. Từ những nhận định sai lầm về mặt tư tưởng, thiếu hiểu biết về khoa học và quy luật tự nhiên, nên đã hình thành những học thuyết triết học về thần linh và từ đó đã hình thành nên một bản ngã trường tồn vĩnh cửu. Chỉ Thượng Đế mới có cái đại ngã ấy, mà chúng ta chỉ là một tiểu ngã của Thượng Đế. Những học thuyết đó, được Thế Tôn phủ nhận hoàn toàn khi Ngài giác ngộ vô thượng Bồ Đề. Sau khi tìm ra chân lý, Ngài đã thiết lập nền tảng giáo lý Vô Ngã và bài Kinh Vô Ngã Tướng được Đức Thế Tôn đề cập đến vấn đề vô ngã xoay quanh xác thân vô thường sanh diệt. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều là vô ngã, không có một thực thể tồn tại độc lập. Hợp thể ngũ uẩn đều là duyên sinh vô ngã và giáo lý vô ngã đã được đức Thế Tôn nói suốt cả cuộc đời giáo hóa, nằm trong hai hệ thống giáo lý nguyên thủy và phát triển, để rồi giáo lý vô ngã đóng một vai trò quan trọng trong tiến trình giải thoát, và cũng là nền tảng căn bản để phản bác lại những tôn giáo thần thánh.

Vô ngã (Anatta), “a” hoặc “na” là vô, “atta” nghĩa là ngã. Anatta được dịch là “vô ngã”, tức là không thực có một bản thể trường tồn bất biến. Tất cả các pháp đều sanh diệt huyễn hóa. Chỉ do duyên mà hợp và khi hết duyên thì chúng tan rã. Bởi vì các pháp đều do duyên sanh nên chúng không có một cái “ta” chắc thật, không có một chủ thể độc lập. Mọi sự vật đều nương gá vào nhau mà sinh và diệt, vì sinh diệt liên tục không ngừng nên gọi là “vô ngã.” Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy:

“Con tôi tài sản tôi

Người ngu lo nghĩ vậy

Tự ta, ta không có

Con đâu, tài sản đâu?”[1].

Vô ngã còn đồng nghĩa với giải thoát. Nói cách khác, vô ngã là sự thực tu thực chứng của một hành giả, chứng nghiệm về sự chấp lầm thân này là của ta, tài sản này là của ta, vợ con này là của ta, và tất cả là sở hữu của ta. Nhờ thấy biết như vậy một cách như thật nên được giải thoát mọi sự trói buộc của phiền não tham, sân, si. Từ đó có một cái nhìn sáng suốt, khách quan đối với mọi sự vật hiện tượng của các pháp, và từ đó chúng ta có một đời sống an lành, hạnh phúc.

1. Giáo lý Vô ngã được đề cập trong Kinh tạng

Khi nói đến vô ngã, Đức Phật đề cập ngay đến con người. Đức Phật cho rằng con người là duyên sinh vô ngã. Vì con người được hình thành bởi hợp thể năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Phật giáo quan niệm rằng năm yếu tố hình thành nên một chúng sanh đều là vô thường, khổ và vô ngã.

Giáo lý vô ngã được Đức Phật đề cập trong bài Kinh Vô Ngã Tướng, cho rằng sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều là vô thường, khổ, vô ngã. Tất cả năm yếu tố ấy không có một tự thể độc lập. Trong sắc, thọ, tưởng, hành, thức không có một linh hồn trường tồn bất biến. Chúng đều nương gá nhau mà hình thành, chúng không có một tự thể độc lập, nên chúng bị chi phối bởi vô thường sanh diệt. Đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú:

Tất cả hành vô thường.

Với tuệ quán thấy vậy

Đau khổ được nhàm chán

Chính con đường thanh tịnh.[2] 

Tất cả hành khổ đau

Với tuệ quán thấy vậy

Đau khổ được nhàm chán

Chính con đường thanh tịnh.[3]

Tất cả Pháp vô ngã

Với tuệ quán thấy vậy

Đau khổ được nhàm chán

Chính con đường thanh tịnh.[4]

Để minh chứng về giáo lý vô ngã, chúng ta khảo cứu qua cuộc đối thoại của vua Mi Lan Đà (Milinda) với Tỳ-kheo Na Tiên (Nagasena) trong Kinh Na Tiên Tỳ Kheo. Chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra được thực thể của năm uẩn là vô ngã, không có một cái “ta” chắc thật, mà là duyên sinh giả hợp tạo thành.

Với sự vấn đáp của Na Tiên Tỳ-kheo và vua Mi Lan Đà đã làm sáng tỏ lý vô ngã qua ví dụ chiếc xe, do ngài Na Tiên đưa ra.

Vua Mi Lan Đà hỏi: Chẳng có gì là Na Tiên cả sao?

Đại đức Na Tiên trả lời: Vâng, đúng thế.

- Tóc, lông, móng, răng, da kia là Na Tiên chăng?

- Không phải.

- Thịt, tủy, gân, xương là Na Tiên chăng?

- Không phải.

- Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là Na Tiên chăng?

- Không phải.

- Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân là Na Tiên chăng?

- Không phải.

- Vậy năm uẩn hợp lại là Na Tiên chăng?

- Không phải.

Đại đức Na Tiên muốn giải thích rõ giáo lý vô ngã đã đưa ra ví dụ về chiếc xe để hỏi vua Mi Lan Đà.

Đại đức hỏi:

- Cái gì gọi là xe? Cái gọng là xe chăng?

- Vua Mi Lan Đà trả lời:

- Không phải.

- Cái trục là xe chăng?

- Không phải.

- Bánh xe là xe chăng?

- Không phải.

- Cái thùng là xe chăng?

- Không phải.

- Cái mui là xe chăng?

- Không phải.

- Cái cương là xe chăng?

- Không phải.

- Cái căm là xe chăng?

- Không phải.

- Vậy cái gì là xe?

Tất cả những bộ phận chi tiết như thùng, mui, căm, bánh, trục nếu nằm riêng lẻ thì không gọi là xe. Nhưng kết hợp tất cả các bộ phận lại tạm gọi là xe. Cũng như thế, tất cả tóc, lông, móng, răng, da,… ngũ uẩn, lục căn nếu chúng nằm riêng thì làm sao gọi là Na Tiên? Nhưng nếu chúng hợp lại thì tạm gọi là Na Tiên.[5]

Qua ví dụ trên cho ta thấy được sắc, thọ, tưởng, hành, thức thảy đều y như nhau, thảy đều là vô ngã và chúng đều chịu khổ đau. Chúng sẽ bị chi phối bởi định luật vô thường sinh diệt. Trạng thái vô ngã là kết quả tự nhiên của một quá trình quán chiếu về thực thể của năm uẩn và nguyên lý sinh diệt của mười hai nhân duyên. Nền tảng căn bản của mười hai nhân duyên là nguyên lý sinh diệt liên tục: “Cái này có thì cái kia có, cái này sanh thì cái kia sanh, cái này diệt thì cái kia diệt.”[6]

Để phủ nhận cái “ta”, Đức Phật đã trình bày, giảng giải về mười hai móc xích cấu thành vòng luân hồi lẩn quẩn của con người một cách tỉ mỉ: Do vô minh mà có hành, do hành mà có thức, do thức mà có danh sắc, do danh sắc mà có lục nhập, do lục nhập mà có xúc, do xúc mà có thọ, do thọ mà có ái, do ái mà có thủ, do thủ mà có hữu, do hữu mà có sanh, do sanh mà có lão tử, sầu bi khổ ưu não…

Đây là một tiến trình sinh khởi của mười hai nhân duyên theo trình tự của một chúng sanh. Tùy thuộc vào vô minh diệt mà hành diệt, và các chi phần còn lại theo đó mà đoạn diệt. Cho nên chúng ta không thể tìm ra được một tự ngã chân thật trong mười hai móc xích đó. Cái mà chúng ta cho là “ta” và “tự ngã của ta” đều không thật có. Vì chúng tùy thuộc vào nhau mà phát sinh và chúng cũng tùy thuộc vào nhau mà đoạn diệt. Để tìm ra một thực thể thường hằng bất biến của một chúng sanh hay một linh hồn trường tồn vĩnh cửu trong mười hai nhân duyên đều là chuyện hoang đường không thể có. Vì trong mười hai nhân duyên không có cái gì gọi là tự ngã của ta.

Giáo lý vô ngã ví như ngọn đèn xua tan bóng tối của quan niệm sai lầm về chấp ngã, chấp linh hồn của một chúng sanh. Tâm Kinh trình bày rằng Ngài Quán Tự Tại (tức Quán Thế Âm) Bồ-tát khi thẩm sâu vào trí tuệ Ba-la-mật-đa thì ngài quán xét năm uẩn đều là không, không có một cái ta trong một chúng sanh. Tất cả các pháp đều là vô ngã cho nên Ngài đã vượt qua tất cả khổ ách để thể nhập vào trí tuệ của Như Lai.

2. Nhận thức về lý vô ngã

Khi chúng ta nhận định đúng về các pháp một cách chân thật, tức là chúng ta đã nhận thức được giáo lý vô ngã một cách thấu đáo và rốt ráo.

Hiểu giáo lý Vô Ngã giúp chúng ta có cái nhìn về sự vật, sự việc một cách nhẹ nhàng, không bị ràng buộc bởi những kiến chấp sai lầm về thân và tâm. Bằng nhục nhãn chúng sanh không thể hiểu được lý vô ngã, nhưng với pháp nhãn chúng ta mới có thể thấy được lý vô ngã một cách triệt để, vì các pháp đều là duyên sinh vô ngã. Với cách nhìn như vậy, chúng ta mới hiểu được thực tướng của các pháp.

Nếu chúng ta có những quan niệm sai lầm, có những kiến chấp về con người và vũ trụ là trường tồn bất biến thì khó mà nhận thức giáo lý vô ngã một cách toàn diện được.

Người hiểu lý vô ngã tức là người có chìa khóa trong tay để mở cánh cửa bất tử, chọc thủng bức màn vô minh từ xưa nay đã che mờ tánh giác, giúp chúng ta mau thành tựu an lạc, hạnh phúc và tiến đến giải thoát Niết-bàn.

3. Tu tập theo tinh thần vô ngã

Người sống và tu tập theo tinh thần vô ngã thì thân và tâm nhẹ nhàng giải thoát. Đối với ngoại cảnh chung quanh tâm vẫn ung dung, tự tại, không bị chi phối. Ví như bị người khác lăng mạ, chửi mắng, nói những lời xúc phạm, họ vẫn bình thản, vui vẻ, luôn giữ thái độ bao dung tha thứ, mọi sự thua thiệt đều nhận về mình không phân biệt là người thân kẻ sơ.

Bản ngã là kẻ thù lớn của người tu tập, nó sẽ hủy diệt thân và tâm chúng ta một cách tàn nhẫn không thương tiếc. Để đạt được trạng thái vô ngã, người tu tập phải vượt qua những chướng ngại, cạm bẫy thử thách của cuộc hành trình tu tập kiên định. Trong đời sống thiền viện, đôi khi các thiền sư hay sử dụng những lời nói khiếm nhã hoặc những hành động thiếu tế nhị để thử thách các thiền sinh. Nếu thiền sinh ấy thiếu tỉnh giác trước những lời nói hoặc hành động thô lỗ của thiền sư thì lập tức bản ngã xuất hiện. Thiền sinh cảm thấy mình bị xúc phạm, lòng tự trọng bị tổn thương và cảm thấy khó chịu, lập tức phiền não tham, sân, si sinh khởi. Còn nếu có sự tỉnh giác trong đời sống tu tập thì sẽ thấy rằng ngay cái ý niệm để ghi nhận những âm thanh sắc tướng kia cũng không thực thể, thì vị ấy vượt qua chướng ngại một cách dễ dàng. Vị ấy còn có thái độ cảm ơn một khi bị xúc phạm, vì đó là cơ hội để phát huy đời sống vô ngã.

Nhà võ sĩ kiếm đạo trứ danh Tokiyori lúc mới xin vào xuất gia tu tập, ông bị thầy mình đánh một bạt tai bất ngờ mà ông không hề giận và ngược lại có một thái độ rất thản nhiên trước sự cư xử của thầy. Ông tự nghĩ trước kia ông vẫn tưởng ông là người đại dũng khi ông cầm trong tay mấy ngàn quân đánh nam dẹp bắc không một ai cản đường. Thế mà khi bị đánh một bạt tai ông tự trầm tĩnh lòng mình, trái tim ông không đập mạnh, lòng ông cảm thấy nhẹ nhàng như không có chuyện gì, khi ấy ông mới nhận ra sự oai hùng trước kia so với bây giờ còn nhu nhược thấp hèn nhiều. Tự chủ được cái lòng tự tôn tự đại của mình mới thật là oai hùng.[7]

Qua câu chuyện trên cho chúng ta thấy thêm được một điều thú vị. Người sống không chấp thủ vào cái hợp thể năm uẩn là người luôn luôn thắng được chính mình và chiến thắng ấy mới thực sự là một chiến công oanh liệt. Đức Phật dạy:

Dầu tại bãi chiến trường,

Thắng hàng ngàn quân địch,

            Tự thắng mình tốt hơn,

            Thật chiến thắng tối thượng.[8]

Thêm một điều nữa, người tu tập vô ngã luôn có tâm vô tư khi nhận định một vấn đề gì đều khách quan không thiên vị, luôn giúp đỡ và chia sẻ với mọi người, giàu lòng vị tha, dẹp đi những ích kỷ xấu xa nhỏ hẹp. Người có tâm vô ngã sẽ tha thứ những lỗi lầm cho tất cả mọi người chung quanh. Đôi khi trong đời sống tu tập ít nhiều cũng đụng chạm những việc bất hòa hay gây phiền toái đến chư huynh đệ, và đây cũng là cơ hội để cho chúng ta thực hành pháp vô ngã. Nếu người không chấp ngã sẽ dễ dàng bỏ qua và tha lỗi cho nhau, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau trên bước đường tu tập.

Sống với tinh thần vô ngã sẽ giúp cho chúng ta vượt qua những khó khăn, thử thách trong đời sống tu tập và tâm ta luôn cảm thấy nhẹ nhàng giải thoát.

4. Kết quả khi tu tập vô ngã

Người tu tập giáo lý vô ngã sẽ không còn chấp thủ cái “ta” và “của ta”. Khái niệm về cái ta không còn ngự trị trong sắc, thọ, tưởng, hành, thức và khi ấy ta thực sự giải thoát giác ngộ. Khi chúng ta không còn chấp thủ cuộc đời này là trường tồn bất biến thì khái niệm về thần linh hay thượng đế không còn lẩn quẩn trong tâm hồn.

Khi thấu triệt giáo lý Vô Ngã thì đời sống của chúng ta luôn thấy an nhàn hạnh phúc, tự tại giữa cuộc đời. Cũng như khi ra khi vào không còn bị kẹt vào những quan niệm sai lầm về cái ta và tự ngã của ta. Từ đó phiền não tham, sân, si không còn cơ hội để sai khiến chúng ta. Những gánh nặng sẽ đặt xuống và không còn mang vác thêm một thứ gì nữa, việc cần làm đã làm xong, không còn phải tái sanh luân hồi. Khi ấy chúng ta mới chợt hiểu rằng Đức Phật là một bậc thầy khả kính, từ đó chúng ta càng thấy kính yêu Đức Phật hơn. Như một học giả phương Tây đã nói : “Càng hiểu về Đức Phật, chúng ta càng kính yêu Đức Phật, càng kính yêu Đức Phật chúng ta càng hiểu về Đức Phật” (The more I know the Buddha the more I love Him, the more I love the Buddha the more I know Him).[9]

KẾT LUẬN

Trong những lời dạy của Đức Phật suốt 45 năm hoằng pháp thì giáo lý Vô Ngã được đề cập rộng rãi trong các kinh. Nó đóng vai trò rất quan trọng, là nền tảng căn bản của Niết-bàn, là chìa khóa để mở ra một cánh cửa bất tử, giải thoát. Qua dòng chảy của thời gian cách đây hơn 2.500 năm, giáo lý vô ngã tồn tại một cách vững chãi. Sức mạnh của vô ngã đã diệt trừ được những kiến chấp sai lầm về con người và vũ trụ, phá tan những màn vô minh che mờ chân tâm Phật tánh, lộ ra một vẻ đẹp trang nghiêm của cái tâm thanh tịnh và giải thoát.

Chúng ta hiểu được giáo lý Vô Ngã thì chúng ta dễ dàng cảm thông và tha thứ cho tất cả. Mở rộng lòng bi mẫn đối với mọi người, luôn luôn sống với tinh thần lợi tha quên mình vì người. Càng hiểu giáo lý vô ngã thì chúng ta càng thấu rõ về con người thật xưa nay, và cũng không có một cái gì trong con người gọi là chúng sanh.


[1] Kinh Pháp Cú, số 62, HT. Thích Minh Châu dịch, TP. HCM: NXBTG, 2000, tr. 22.

[2] Sđd, số 277.

[3]Sđd, số 278.

[4] Sđd, số 279.

[5] Xem Kinh Mi Tiên Vấn Đáp, phẩm Danh, HT. Giới Nghiêm dịch, Hà Nội, Nhà xuất bản Tôn giáo, 2003.

[6] Kinh Tiểu Bộ, Kinh Phật Tự Thuyết (tập I), HT. Thích Minh Châu dịch, TP. HCM, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1992, tr. 291.

[7] Thích Chân Quang (chủ biên), Vô Ngã, Hà Nội, Nhà xuất bản Tôn giáo, tr. 171-172.

[8] Kinh Pháp Cú, số 103, HT. Thích Minh Châu dịch, TPHCM, Nhà Xuất bản Tôn giáo, tr.33.

[9] Trích trong bài giảng của TT. Thích Bửu Chánh.

    Chia sẻ với thân hữu:
    In bài viết: