CHÀO MỪNG QUÝ VỊ ĐÃ GHÉ THĂM TRANG NHÀ. CHÚC QUÝ VỊ AN VUI VỚI PHÁP BẢO CAO QUÝ !

Pháp quán niệm hơi thở… tu tập thân chứng, thành tựu Minh và Giải thoát

Trong những khóa tu trước, chúng ta đã cùng nhau trao đổi chí nguyện lập đạo, hành đạo của Tổ sư với phương châm “Nối truyền Thích Ca chánh pháp”, nên từ hình thức thể hiện “y bát, giới luật” đến nội dung giáo lý và phương pháp tu tập… đều không tách rời kinh – luật – luận mà Đức Phật đã giáo huấn, giảng dạy được ghi trong tam tạng giáo điển.

Do vậy, trong khóa tu lần này, con trò xin giới thiệu đến chư huynh đệ một ý pháp, một phương pháp tu tập rất quen qua đề tài: Pháp quán niệm hơi thở… tu tập thân chứng, thành tựu Minh và Giải thoát.

Trong chủ đề này, chúng ta sẽ tìm hiểu về sự gặp gỡ tương đắc của 2 phần nội dung căn bản: Một là, bài kinh 810, do tôn giả A-nan tự thuật trong kinh Tạp A Hàm, tập III. Hai là, bài Chơn Lý số 53 – Số tức quan, do Tổ sư Minh Đăng Quang luận giảng.

PHẦN I: PHÁP QUÁN NIỆM HƠI THỞ…

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong rừng Tát-la-lê, cạnh sông Bạt-cầu-ma tại tụ lạc Kim cương. Bấy giờ Tôn giả A-nan ở một mình nơi vắng, thiền quán tư duy, tự nghĩ như vầy: ‘Có một pháp nào được tu tập, tu tập nhiều, khiến cho bốn pháp đầy đủ. Bốn pháp đã đầy đủ rồi thì bảy pháp đầy đủ. Bảy pháp đã đầy đủ rồi thì hai pháp đầy đủ?’

Sau khi từ thiền định xả tịnh, Tôn giả A-nan đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật rằng:

Khi con ở một mình nơi chỗ vắng, thiền quán tư duy tự nghĩ: ‘Có một pháp nào được tu tập, tu tập nhiều, khiến cho bốn pháp đầy đủ. Bốn pháp đã đầy đủ rồi thì bảy pháp đầy đủ. Bảy pháp đã đầy đủ rồi thì hai pháp đầy đủ?’.

Có một pháp được tu tập: An-na-ban-na niệm

Phật bảo A-nan:

Có một pháp được tu tập, tu tập nhiều,… cho đến hai pháp đầy đủ. Những gì là một pháp? Đó là An-na-ban-na niệm, được tu tập, tu tập nhiều, có khả năng làm cho bốn niệm xứ đầy đủ. Bốn niệm xứ đã đầy đủ rồi, bảy giác phần đầy đủ. Bảy giác phần đã đầy đủ rồi, minh và giải thoát đầy đủ.

Trước hết, chúng ta cần ghi nhận một cách chắc chắn những gì tôn giả A-nan đã suy tư và thỉnh cầu Đức Phật chỉ dạy thì đều được Đức Phật chỉ bày, khai thị một cách tường tận.

Tu tập quán niệm hơi thở… làm cho bốn niệm xứ đầy đủ

Thế nào là tu tập An-na-ban-na niệm thì bốn niệm xứ đầy đủ? Tỳ-kheo nương vào làng xóm mà ở… cho đến khéo học quán diệt khi niệm hơi thở ra.

a) Quán thân trên thân

Này A-nan, như vậy Thánh đệ tử, khi niệm hơi thở vào, học như niệm hơi thở vào; khi niệm hơi thở ra, học như niệm hơi thở ra. Hoặc dài hoặc ngắn. Giác tri tất cả thân hành, khi niệm hơi thở vào, học như niệm hơi thở vào; khi niệm hơi thở ra, học như niệm hơi thở ra. Thân hành an tịnh khi niệm hơi thở vào, học như thân hành an tịnh niệm hơi thở vào; thân hành an tịnh khi niệm hơi thở ra, học như thân hành an tịnh niệm hơi thở ra. Thánh đệ tử lúc bấy giờ, an trụ chánh niệm quán thân trên thân. Nếu khác với thân, kia cũng như vậy, tùy theo thân tương tự tư duy”.

Như vậy, Đức Phật đã dạy rất rõ khi hít vào, thở ra đều tỏ rõ thông suốt. Chẳng những vậy, chúng ta còn phải tỉnh giác toàn thân:

Giác tri tất cả thân hành.

An tịnh tất cả thân hành.

An trụ chánh niệm quán thân trên thân.

Thứ nhất, giác tri, an tịnh, an trụ chánh niệm quán thân trên thân. Cũng tương tự như người đi chợ mua rau hay người nấu ăn. Mọi lúc, mọi nơi, từ lúc mua rau, lặt rau, rửa rau, luộc xào, nấu canh… đều chú tâm tỉnh giác. Nấu cơm cũng vậy, trước khi nấu, đang khi nấu, sau khi nấu đều chú tâm tỉnh giác.

b) Quán thọ trên thọ

Bước thứ hai, giác tri hỷ, giác tri lạc, giác tri tâm hành an tịnh. An trụ chánh niệm, quán thọ trên thọ. Người tu khéo chuyên tâm tỉnh giác trước mọi thời duyên – Quán thọ trên thọ.

Nếu có lúc Thánh đệ tử giác tri hỷ, giác tri lạc, giác tri tâm hành, giác tri tâm hành an tịnh, khi niệm hơi thở vào, học như tâm hành an tịnh niệm hơi thở vào; tâm hành an tịnh khi niệm hơi thở ra, học như tâm hành an tịnh niệm hơi thở ra. Thánh đệ tử lúc bấy giờ, an trụ chánh niệm quán thọ trên thọ. Nếu khác với thọ thì kia cũng tùy theo thọ tương tự tư duy”.

c) Quán tâm trên tâm

Kế đến bước thứ ba – Giác tri tâm, giác tri tâm hoan hỷ, tâm định, tâm giải thoát; an trụ chánh niệm – Quán tâm trên tâm.

Nếu có khi Thánh đệ tử giác tri tâm, giác tri tâm hoan hỷ, tâm định, tâm giải thoát, khi niệm hơi thở vào, học như tâm giải thoát niệm hơi thở vào. Tâm giải thoát khi niệm hơi thở ra, học như tâm giải thoát niệm hơi thở ra. Thánh đệ tử lúc bấy giờ, an trụ chánh niệm quán tâm nơi tâm. Nếu có tâm khác, kia cũng tùy theo tâm tương tự tư duy”.

d) Quán pháp trên pháp

Tiến lên bước thứ tư – Thánh đệ tử quán vô thường, đoạn vô dục... Quán pháp trên pháp.

Nếu có khi Thánh đệ tử quán vô thường, đoạn, vô dục, diệt, học an trụ quán như vô thường, đoạn, vô dục, diệt. Thánh đệ tử lúc bấy giờ, an trụ chánh niệm quán pháp trên pháp. Nếu có pháp khác, kia cũng tùy theo pháp tương tự tư duy. Đó gọi là tu An-na-ban-na niệm, thì bốn niệm xứ đầy đủ.”

Trong trường hợp nào cũng giữ vững tâm ý mình, tâm ý người tu không để bị dao động, bị chi phối bởi pháp trần. Như vậy, gọi là “quán niệm hơi thở” làm cho bốn niệm xứ đầy đủ.

Tu tập bốn niệm xứ đầy đủ làm cho bảy giác phần đầy đủ

Tiếp theo, làm thế nào để tu bốn niệm xứ đầy đủ, tu bốn niệm xứ làm cho bảy giác phần được đầy đủ?

Đức Phật dạy, này A-nan:

Nếu Tỳ-kheo an trụ chánh niệm quán thân trên thân. Sau khi an trụ với chánh niệm, cột niệm trụ yên không cho mất, bấy giờ, phương tiện tu niệm giác phần. Khi đã tu niệm giác phần rồi, niệm giác phần được đầy đủ. Khi niệm giác phần đã đầy đủ rồi, đối với pháp mà tuyển trạch, tư lường; bấy giờ phương tiện tu trạch pháp giác phần. Khi đã tu trạch pháp giác phần rồi, trạch pháp giác phần được đầy đủ. Sau khi đối với pháp đã tuyển trạch, phân biệt, tư lường rồi, phương tiện tinh cần sẽ đạt được, lúc bấy giờ phương tiện tu tập tinh tấn giác phần. Khi đã tu tinh tấn giác phần rồi, tinh tấn giác phần được đầy đủ. Sau khi phương tiện tinh tấn, tâm được hoan hỷ, lúc bấy giờ phương tiện tu hỷ giác phần. Khi đã tu hỷ giác phần rồi, hỷ giác phần được đầy đủ. Khi đã có hoan hỷ rồi, thân tâm khinh an, lúc bấy giờ phương tiện tu khinh an giác phần. Khi đã tu khinh an phần rồi, khinh an giác phần được đầy đủ. Sau khi thân tâm an lạc rồi đạt được tam-muội, lúc bấy giờ tu định giác phần. Sau khi đã tu định giác phần rồi, định giác phần được đầy đủ. Khi định giác phần đã đầy đủ rồi, tham ưu thế gian bị diệt, đạt được xả bình đẳng, lúc bấy giờ phương tiện tu xả giác phần. Sau khi đã tu xả giác phần rồi, xả giác phần được đầy đủ. Đối với thọ, tâm, pháp trên pháp niệm xứ cũng nói như vậy. Đó gọi là tu bốn niệm xứ thì bảy giác phần sẽ đầy đủ.”

Ở đây, chúng ta thấy Đức Phật đã hướng dẫn và xác lập tiến trình tu tập một cách tuần tự và rất rõ ràng. Đầu tiên, an trụ chánh niệm, quán thân trên thân. Bước một, chúng ta tu “niệm giác phần”, tức là luôn luôn tỉnh giác tâm tánh. Thứ đến, đối với pháp mà “tuyển trạch, tư lường” tức là trong mỗi niệm chúng ta phải tự biết “phân biệt sự lành với sự dữ”; tất nhiên “lành làm, dữ buông”. Đến khi phân biệt sự “lành – dữ” thuần thục rồi thì sự “tinh tấn siêng năng” sẽ hiện đủ. Khi “tinh tấn giác phần” đầy đủ thì “hỷ giác phần” dần dần hiện hữu, tức sự hoan hỷ nhẹ nhàng của thân tâm mà mình cảm thọ “thân tâm khinh an”. Khi “thân tâm khinh an” từng bước sẽ được thuần thục tam muội, đưa đến “định giác phần”; tức “nhất tâm đại định”, lòng mình ít khi thay đổi, xê dịch, không bị ngoại duyên chi phối. Khi “định giác phần” đầy đủ thì mọi tham ưu thế gian bị diệt, tĩnh lặng, đạt đến xả bình đẳng, gọi là “xả giác phần” – An trụ chánh niệm thuần tịnh, quán thân trên thân, quán thọ trên thọ, quán tâm trên tâm, quán pháp trên pháp nên gọi là tu bốn niệm xứ đầy đủ thì bảy giác phần đầy đủ.

Tu tập bảy giác phần đầy đủ thì minh và giải thoát đầy đủ

Bấy giờ, A-nan bạch Phật: “Đó gọi là tu bốn niệm xứ, bảy giác phần sẽ đầy đủ. Thế nào là khi tu bảy giác phần thì minh và giải thoát sẽ đầy đủ?

Phật bảo A-nan: “Nếu Tỳ-kheo tu niệm giác phần, y viễn ly, y vô dục, y diệt, hướng đến xả. Sau khi đã tu niệm giác phần rồi, minh giải thoát sẽ đầy đủ… cho đến khi tu xả giác phần y viễn ly, y vô dục, y diệt, hướng đến xả. Cũng vậy, khi đã tu xả giác phần rồi, minh giải thoát sẽ đầy đủ.

Như vậy, Đức Phật dạy người tu phải luôn tỉnh giác trước mọi thời duyên. Sáng, trưa, chiều, tối; thức ngủ; trong thân ngoài thân; trong chùa ngoài chùa; người thân kẻ sơ; thuận cảnh, nghịch cảnh v.v… đều luôn tự tỉnh giác không để tâm bị chi phối, vướng bận.

Y viễn ly là tự mình tỉnh giác xa lìa.

Y vô dục là tự mình tỉnh giác không còn dục nhiễm.

Y diệt là tự mình phẳng lặng, nhẹ nhàng.

Xả là tự mình buông xả xem như hư không, không có gì.

Người tu khi tâm hạnh đạt đến “xả giác phần” rồi thì tâm tánh mình luôn luôn sáng suốt và nhẹ nhàng trước mọi hoàn cảnh, mọi thời duyên, tức tự mình đạt được thân chứng – Minh và Giải thoát.

Cuối cùng, Đức Phật xác chứng: “A-nan, đó gọi là mọi pháp đều tùy thuộc vào nhau, mọi pháp đều ảnh hưởng lẫn nhau. Mười ba pháp như vậy, một pháp làm tăng thượng, một pháp là cửa ngõ, theo thứ lớp tiến lên, tu tập đầy đủ.”

Tóm lại, Đức Phật đã giảng dạy cho chúng ta thấy rõ dù Tứ niệm xứ hay Thất bồ đề phần (Thất giác chi)… đều không thể tách rời nhau mà thuần thục, thành tựu. Các pháp Tứ niệm xứ hay Thất giác phần đều từ tự thân và tâm mình. Từ thân và tâm khi còn mê, con người vô minh, chấp thủ tạo nghiệp tội đọa khổ. Khi giác ngộ quay đầu thì cũng từ thân và tâm này mà tu tập để thanh lọc nghiệp tội nơi thân và tâm. Do vậy, chúng ta phải phương tiện nương pháp “An-na-ban-na” tức “Quán niệm hơi thở” để soi sáng, dừng lại và thanh lọc… để đạt đến MinhGiải thoát.

PHẦN II: CHƠN LÝ 53 “SỐ TỨC QUAN” CỦA TỔ SƯ MINH ĐĂNG QUANG

Tất cả chúng ta đều biết từ thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến thời Tổ sư Minh Đăng Quang, tức thời đại chúng ta với khoảng cách hơn 2500 năm. Một khoảng thời gian quả thật là không ít, nếu không nói là quá xa vời. Vậy mà, Tổ sư đã dũng mãnh phát tâm bồ đề, phát đại nguyện ráp nối xưa và nay, trước và sau; chẳng những không còn khoảng cách mà như ở trong nhau, bên nhau, gần nhau từ hành động đến lời nói và tâm ý một cách vô cùng kỳ diệu.

Chúng ta hãy cùng đọc thật chậm phần đầu bài Chơn lý 53 – Số tức quan của Tổ sư:

Số tức quan tức là quán xét hơi thở mà đếm số. Đức Phật Thích-Ca khi xưa dưới cội bồ đề, ngồi trên tòa cỏ, xét đếm như vậy.

Số tức quan, phát ra trong khi gần nhập định, chớ chẳng phải mượn số tức quan, làm mục đề niệm, để đặng thiền định.

Nghĩa là: Khi xưa đức Phật, trong khi ngồi nắm hai tay lại, cương quyết không làm cử động, tréo hai bàn chân, lật mặt bàn đi trở lên, nhứt quyết không đi đứng, ngậm miệng cắn khít răng lại, nhứt định không nói năng; con mắt ngó xuống ngay một chỗ, rồi từ từ nhắm lại, đứng tròng mắt một chỗ dưới, là Ngài tập chết, nguyện định mắt cứng chết luôn, không cần mở ra; lỗ tai nghe trở vô vắng lặng, như đã chết rồi, đang ở trong cảnh võ trụ im bặt, lỗ mũi hít một hơi vô thật dài sau chót, và thở một hơi ra cuối cùng, rồi nín luôn tắt nghỉ, lặng tâm như sự đã chết, không còn biết chi, sau những lúc tìm xét về đạo lý với sự đời; sau những lúc mệt mỏi, chán nản, giác ngộ, thấy ra không còn muốn sống. Ấy tức gọi là nhập Niết Bàn, nhập định, nhập vào cảnh vắng lặng đứng ngừng, của chơn lý võ trụ”.

Trong ba vế đầu, Tổ sư đã khẳng định tính kế thừa của “pháp quán niệm hơi thở” từ thời Đức Phật còn tại thế đã giảng dạy… cho đến chúng ta… là giống nhau, không có khoảng cách.

Vế thứ hai, Tổ sư chỉ bày tính thọ học và sự nhận định cho thật chuẩn xác lời dạy của Đức Phật để chúng ta không bị rơi vào nhận thức sai lầm. Đồng thời, Tổ sư giúp chúng ta phát huy nét đặc sắc và tính cơ lý của pháp môn. Sự dẫn dụ về sự chết, ngủ… rất là khoa học và hiện thực.

Về mặt thời gian đã cách nhau hơn 25 thế kỷ, cho nên chúng ta không thể cứ mãi chấp thủ mà phải biết nâng cấp tính cơ lý trước thời đại khoa học.

Nhưng bởi trong lúc ấy, bộ máy xác thân còn chạy, lửa bên trong chưa tắt, máu nóng vẫn thay đổi làm cho hơi đọng trong buồng phổi, phải xuống lên nhẹ nhàng thoi thóp, chậm rãi từ từ, đó là cảnh trạng của một người sắp chết, sẽ chết, gần chết.

Kìa như một người chết giả, một người bất tỉnh, một người ngủ say, một giấc ngủ ngon, một cái chết sướng, của một người muốn chết muốn ngủ, sau sự tìm xét thấy ra cõi đời, là muốn chết mãi, ngủ mãi, chỉ muốn sự nghỉ yên là hơn.

Cái chết ngủ nghỉ, đối với tâm hồn còn tham sống, ham thức, muốn tưởng nói làm, là rất khó chịu phản đối, nặng nhọc khó khăn, chớ với người ưa thích giác ngộ, thì thật rất dễ dàng”.

Đây chính là sự gặp gỡ mang tính kế thừa trong giáo pháp một cách sâu sắc về tâm thức. Tổ sư giúp chúng ta tự nhận ra và nâng tiến trình tu tập, không còn chấp thủ tướng pháp mà liễu tri biết rõ mục đích thọ nhận và hành trì để đi đến sự thành tựu của phương pháp, tức nương pháp “quán niệm hơi thở” để soi sáng, thanh lọc từ thân đến tâm.

Từ một pháp “quán niệm hơi thở” để thấu suốt “thân – thọ – tâm – pháp”. Từ vọng tưởng, chấp thủ… nương hơi thở để đạt được giác tri, an tịnh, tâm hành… đến giác tri hỷ, lạc, an tịnh rồi hoan hỷ khinh an, định và giải thoát, tỏ rõ vô thường, đoạn, vô dục, diệt và an trụ chánh niệm.

Qua những lời dạy của Tổ sư, chúng ta thấy tính kế thừa của Tổ sư rất chuẩn mực. Kế thừa có tính chọn lọc, phân định và khế hợp thời duyên, căn cơ con người tu tập.

Nhưng nếu có ai, muốn đuổi xua phiền não chốc lát tập định, nhận xét đếm số hơi thở cách ấy, cũng đỡ khá lắm, vì sẽ mau lãng quên thế sự và ngủ, nghỉ như chết, rất dễ dàng.

Như thế thì số tức quan, không bao giờ có nơi người còn thấy mình quan trọng địa vị, nặng nợ với xã hội, gia đình thế sự; không có nơi người còn muốn sống, thức, tưởng nói làm, thái quá bất cập.

Vì số tức quan là trung đạo, nấc thang của nhập định, trái ngược với sự vọng loạn.

Nhưng nếu sự cố luyện tập của người, cốt ý cho giác ngộ, để khi giác ngộ rồi, là sẽ không còn chấp sống, thức, xao động, thì số tức quan xuất hiện, kềm giữ cho người sự giải thoát trong sạch, để tiến đến Niết Bàn đại định.

Kết quả của số tức quan là nhập định. Kết quả của nhập định, là con người còn thân hay mất thân cũng được, miễn đặng một tinh thần đầy đủ, ý giác linh thiêng chơn như tròn sáng, chủ tể chắc thật hột giống tồn tại, của cái ta, nó sẽ là ta”.

Bên cạnh tính cơ lý, Tổ sư cũng lý giải tính tương quan, tương duyên của các pháp để chúng ta vượt lên mà không phải phân vân:

Đành rằng số tức quan đối với người nặng nhiều nghiệp vọng là khó lắm, nhưng mà cũng nên hãy ráng, tập tu lần lần, vì nó sẽ giác ngộ, giải khổ nghiệp cho người rất nhiều. Còn những ai tâm đã được thanh tịnh dứt nghiệp, là sẽ có nó tự nhiên, hoặc vượt bỏ hẳn nó, bằng sự nhập định xem mình như chết, ngủ, nghỉ đã lâu đời.

Khi xưa đức Phật cùng chư A-la-hán nhờ giác ngộ thế ấy, mà được nhập định, và phát thần thông trí huệ. Mặc dầu là xác thân chưa phải chết, ngủ, nghỉ luôn, pháp thần thông chưa đủ đầy, chớ trong khi nhập định được từ một đến năm bảy ngày thì sẽ được sáu phép thần thông từ lần.

Sau đó các Ngài còn phải chờ đợi tiếp dẫn chúng sanh theo lời kêu gọi, nên sự tu cho mình, phải bớt lại phân nửa, để đặng vừa lo cho mình, mà cũng giúp đỡ cho người, nhưng những việc làm bên ngoài ấy, các Ngài tùy nhơn duyên, làm xong là bỏ qua, gặp làm không thôi, chớ không tìm vọng”.

Và dù cho pháp tu nào thì người tu, tức hành giả hành trì cũng phải có sự nhẫn nại, biết chịu đựng trước mọi sự xê dịch, tới lui mà không hề chán nản để vươn lên, đi tới. Điều quan trọng chính là sự tăng trưởng của tâm thức.

Các Ngài không xem địa vị mình là quan trọng, hay bắt buộc phận sự. Trong tâm lúc nào cũng thấy mình như chết, ngủ, nghỉ, còn thân xác là số tức quan, nhờ đó mà sự giác ngộ trí huệ thần thông của các Ngài không lui sụt, nhưng phép đi tới thì hơi chậm lại một chút; tuy kém về mặt đó chớ với sự độ đời, thì phước đức trí huệ toàn giác, sẽ chóng mau tròn, là chơn như sẽ càng tăng thêm, và nhập định bằng cách thứ hai khác do từ bên ngoài vào, làm cho đạo quả cũng vẫn tròn đủ y nhiên nảy nở mau lẹ, không kém sút, nhờ đó mà gồm luôn được hai tên: Đạo và Đức một lượt”.

Ngày nay, trên thế giới nói chung và những người đệ tử Phật nói riêng, tuy có nhiều pháp môn để tu tập, hành trì, nhưng phương pháp “quán niệm hơi thở” của Đức Phật dạy vẫn mang giá trị đặc sắc riêng. Cho nên, tuy pháp môn “quán niệm hơi thở” trải qua nhiều gian đoạn thời gian nhưng nó vẫn được Tổ sư tùy căn cơ học nhơn mà ứng dụng nhiều cách tu tập theo mỗi thời duyên.

Vấn đề này, Tổ sư cũng nhận định và lý giải như sau:

Ấy cũng vì số tức quan ích lợi, nên về sau có lắm cách tu, luyện tập bằng hơi thở, mà người ta chỉ chăm chú tại hơi thở, chớ ít ai nhận xét ra được, số tức quan có sẵn nơi mình, nơi bậc trong sạch dứt nghiệp. Những sự hô hấp ấy cũng có nhiều lợi ích. Ví như có một người kia tập như vầy: Hơi thở hít vô kéo dài nhẹ nhẹ, niệm tưởng thầm rằng: “Nam-mô A” chậm rãi đến mãn hơi, dội trở ra kéo dài nhẹ nhẹ, niệm tưởng thầm rằng: “Di Đà Phật” chậm rãi đến mãn hơi; thâu vô trở lại, niệm tưởng nữa, làm thành vòng tròn, bằng sáu chữ “Nam-mô A-di-đà Phật” và liên tiếp những vòng tròn. Đi đứng nằm ngồi đều niệm mãi, tập không cho bỏ sót một hơi thở nào, trừ ra lúc ngủ quên, hay khi nói chuyện. Kẻ ấy bằng định tâm được như thế cũng khá, lục căn sẽ thanh tịnh lần, và sẽ đến được giác ngộ, của chết, ngủ, nghỉ, số tức quan mực trung, mà đắc định. Vì khi niệm ghi nhớ lâu sau đã quen, là sẽ không còn niệm sáu chữ ấy, mà như lúc nào cũng vẫn có, in trí vào hơi thở, chừng đó là còn hơi thở, càng ngày càng nhẹ nhẹ lần, cho đến sau rốt chỉ biết có chết ngủ, nghỉ, bằng hơi thở thoi thóp tự động, ấy là số tức quan, do đó mà đặng nhập định. Kẻ ấy niệm Phật danh như thế là để mượn đức tin ủng hộ, cho tinh tấn ham mộ, chớ hoặc như hơi vô đếm một, hơi ra đếm hai, mãi đếm một, hai hoặc đến bao nhiêu cũng được. Có người niệm tưởng một câu pháp, niệm danh hiệu Phật khác, hoặc một cái chi, đề mục nào cũng nên ích lợi, vì cốt ý là để trụ tâm. Những kẻ yếu tâm hay loạn, thì trước hết niệm ra tiếng cho quen, kế đó niệm thầm cho tai nghe theo hơi thở, tiếp nữa không niệm mà hơi thở quen chừng như có niệm, sau rốt mất niệm mà hơi thở vẫn đều hòa khỏe nhẹ, như đến cảnh trí chết, ngủ nghỉ là số tức quan hiển hiện, để đưa vào nhập định. Số tức quan ấy kêu là vầng mây bay, đưa vào xứ Phật.”

Từ quan điểm và phương pháp tu tập này, chúng ta thấy Tổ sư rất thông thoáng, nhẹ nhàng tùy theo căn tánh của mỗi thế hệ học nhơn.

Về hơi thở, người ta luyện tập cách nào cũng được, cốt yếu là để tập định, nhưng lúc hành thì phải kinh nghiệm, xem chừng từ chút sự khác lạ, kẻo thái quá bất cập có điều trở ngại, tai hại cho thân thể, làm mất an vui tấn hóa. Người ta cũng có thể, cần phải biết ra nhiều cách thở, để đặng thay đổi pháp hành tùy theo nhơn duyên trình độ, cho đặng thuận tiện tinh tấn. Hơi thở là một đề mục, trong muôn ngàn đề mục thiền định, chớ chẳng phải một môn độc nhứt để đến thiền định. Nhưng phong tục ở xứ này, phần nhiều có học tiên gia, tu theo pháp hữu vi, chấp có hình thức, mau hiệu nghiệm, lại dễ làm cho lớp kém, nên ham thích hơn pháp vô vi tự nhiên, theo chơn lý vĩnh viễn thường bền của võ trụ nhà Phật; mà dầu sao cũng được, hãy cố gắng giác ngộ là quý báu, vì sự đi mau; cũng có lắm khi đến chậm, hơn người chậm rãi bình thường mực giữa”.

PHẦN III: KẾT LUẬN

Giá trị đặc sắc của hơi thở và pháp quán niệm hơi thở

Con người có thân tứ đại (đất, nước, gió, lửa), có thân ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), có ngũ tạng (tâm, can, tỳ, phế, thận), có hơi thở ra vào thì con người sống, không có hơi thở ra vào thì con người chết.

Con người có thân tứ đại, ngũ uẩn, ngũ tạng… Khi có hơi thở, con người có sự sống và nếu con người chấp ngã mà tạo nghiệp, tạo tội lỗi sẽ bị đọa khổ. Nay con người biết tu, dùng hơi thở khéo quán niệm, soi sáng (thân, thọ, tâm, pháp)…, soi sáng thất tình trong cuộc sống thường chi phối con người. Quán niệm hơi thở, con người biết dừng lại mọi tạp niệm để an tịnh tâm hồn, soi sáng chính mình và đạt được minh và giải thoát. Chúng ta hãy ôn lại lời dạy của Tổ sư trong Chơn lý “Sổ tức quan” để nhận ra giá trị thực tướng của hơi thở:

Về hơi thở, người ta luyện tập cách nào cũng đựơc, cốt yếu là để tập định, nhưng lúc hành thì phải kinh nghiệm, xem chừng từ chút sự khác lạ, kẻ thái quá bất cập có điều trở ngại, tai hại cho thân thể, làm mất an vui tấn hóa. Người ta cũng có thể, cần phải biết ra nhiều cách thở, để đặng thay đổi pháp hành tùy theo nhơn duyên trình độ, cho thuận tiện tinh tấn. Hơi thở là một đề mục trong muôn ngàn đề mục thiền định, chớ chẳng phải một môn độc nhứt để đến thiền định”.

Pháp quán niệm hơi thở là một phương tiện để soi sáng thân tứ đại, ngũ uẩn để thành tựu minh và giải thoát

Tất cả những phép tu tập hơi thở có khó dễ khác nhau, nhưng chẳng có cách nào qua lẽ tự nhiên bình thường này; là người ta phải đừng cố ý chăm chú vào riêng hơi thở, nhưng người ta mỗi lúc nào, cũng phải ngăn đón, sự thái quá thở mạnh, càng bất cập thở nhẹ, tức là phải giữ làm sao, hơi thở được mực trung điều hòa nhau như sợi dây ngang thẳng chẳng cho gợn sóng, như cái vòng tròn không cho móp méo. Nghĩa là không có tu luyện, mà phải làm sao, hơi thở của tâm, hơi thở của trí, hơi thở của thân hòa nhau một mực, ấy là đắc đạo, đắc đại định, trung đạo, chánh đẳng chánh giác, đó là một pháp tu chơn đúng lý, rất giản tiện, thật thông thường, nhưng chúng sanh thì thái quá bất cập đã quen nên khó lòng bền trí thật hành.

Vậy thì tất cả các phép tu, không có phép nào qua sự tự nhiên, vì tự nhiên chơn như là định, trung đạo, còn các pháp tu, là dùng trừ thái qúa bất cập, để đặng giử cái trung đạo tự nhiên chơn như định, chớ không phải tu là để tìm thái qúa bất cập, hai bên lề. Bởi cái sống, biết, linh là ai cũng đang sẵn có, mà vì bị thái qúa bất cập, là pháp ngăn che ám muội. Hiểu như thế tức là cũng như không có tu tập luyện rèn chi, miễn đừng thái quá bất cập vọng loạn, và không nên chấp có hơi thở tưởng đếm chi số tức quan”.

Hành giả tu tập không thể không thực hiện “pháp quán niệm hơi thở” để soi sáng, thành tựu

Ba phép tinh, khí, thần hay giới, định, huệ, nơi người mà biết giữ gìn đều đủ, tức là lục căn thanh tịnh, thất tình đoạn phủi, tam độc tiêu trừ, ngũ uẩn khỏi qua, tứ tướng dứt sạch, nhơn ngã không còn... nên trí huệ thần thông, quả linh đạo lý, giác ngộ chơn như đặng đều đủ.

Cũng vì thế mà người tu ai ai cũng quý trọng sự nhập định dưỡng khí, là phép số tức quan. Vì có cái giữa mới đến được cái trên”.

TX. Ngọc Thiền – Đà Lạt, 03/03/Quý Tỵ – 2013

    Chia sẻ với thân hữu:
    In bài viết:

Các bài viết liên quan