Lâm Đồng: Trưởng lão Hòa thượng Giác Giới chủ trì thời pháp tại khóa tu Truyền thống Khất sĩ lần thứ 38

Trong khuôn khổ của khóa tu Truyền thống Khất sĩ lần thứ 38 tại Tịnh xá Trúc Lâm (xã Hàm Tân, tỉnh Lâm Đồng), Trưởng lão HT. Giác Giới – Phó Thư ký Ban Thường trực HĐCM GHPGVN, Giáo phẩm Chứng minh Hệ phái, Chứng minh GĐ.I PGKS, Trụ trì Tổ đình Minh Đăng Quang (tỉnh Vĩnh Long), Thiền chủ khóa tu, đã thân lâm thăm và dành thời pháp sách tấn chư hành giả, trong ngày thứ hai của khóa tu – 24/10/2025 (4/9/Ất Tỵ).

Trước khi nước vào bài giảng, Trưởng lão Hòa thượng bày tỏ niềm hoan hỷ khi nhìn lại chặng đường hơn 15 năm duy trì và phát triển khóa tu Truyền thống Giới - Định - Tuệ. Từ những ngày đầu chỉ vỏn vẹn 7 ngày tu học, đến nay thời gian được mở rộng thành 10 ngày, thể hiện sự tinh tấn và khát vọng tu tập miên mật của Tăng đoàn Khất sĩ. Trưởng lão nhấn mạnh, đây không chỉ là một khóa tu thông thường, mà là sự tiếp nối tinh thần “Sống chung tu học” mà Đức Tổ sư Minh Quang đã khai sáng, một truyền thống giúp hàng Tăng-già cùng nhau gìn giữ và phát huy đạo mạch của Đức Phật.

Tiếp đó, Trưởng lão HT. Giác Giới đã dẫn dắt chư hành giả trở về với cội nguồn tu học của người Khất sĩ: “Giới - Định - Tuệ – ngọn đèn soi sáng trên con đường giải thoát”. Dẫn lời Đức Tổ sư Minh Quang dạy trong Chơn lý “Y Bát chơn truyền”: “Người Khất sĩ chỉ có ba pháp tu vắn tắt là Giới - Định - Tuệ (…) Người cư sĩ khi bước chân vào đời cũng phải nhớ mang theo Giới - Định - Tuệ”, Trưởng lão Hòa thượng chỉ rõ, ba pháp tu tập Giới - Định - Tuệ chính là phần tinh yếu trong Đạo Đế của Tứ Thánh Đế, là con đường đưa người hành giả vượt thoát mọi khổ đau, đạt đến an lạc Niết-bàn.

Theo Trưởng lão Thiền chủ, Giới - Định - Tuệ không chỉ là phương tiện, mà là cứu cánh, là nền tảng để duy trì mạng mạch Phật pháp. Nhắc đến lời dạy về nơi nương tựa chân thật, Trưởng lão Hòa thượng trích trong Kinh Pháp cú: “Người đời sợ hãi, tìm quy y thần núi, cây cỏ, nhưng ai quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, thấy rõ Tứ Đế, ấy là quy y tối thượng”. Theo đó, người Phật tử chân chánh phải có “quyết định tánh”, nghĩa là niềm tin vững chắc nơi Tam bảo và chí nguyện kiên cố hướng đến giác ngộ. “Không có quyết định tánh thì chưa thể gọi là đệ tử Thế Tôn”, Trưởng lão HT. Giác Giới nhấn mạnh.

Nói về thánh cầu và phi thánh cầu – cội nguồn của sự tìm cầu khổ đau, Trưởng lão Thiền chủ trích từ Kinh Thánh cầu (Trung Bộ kinh Số 26), chỉ rõ rằng: “Phần lớn con người đang đi tìm cầu trong phi thánh cầu, nghĩa là cầu những gì thuộc về sanh - già - bệnh -chết. Trong khi đó, Đức Phật chỉ ra, đây đều là con đường dẫn đến khổ đau. Còn Thánh cầu là khi con người nhận ra sự nguy hiểm của sinh tử và khát khao tìm cầu cái không sanh, không già, không bệnh, không chết, tức là Niết-bàn, sự an ổn tối thượng”.

Nhân khóa tu lần này, Trưởng lão Hòa thượng cũng dành lời cảnh tỉnh đến chư hành giả về căn bệnh thụ động trong tu tập của người xuất gia. “Tu mà không học là tu mù. Người chưa chứng Sơ quả mà tu cũng là tu mù”, Trưởng lão HT. Giác Giới khẳng định, đồng thời nhắc lại lời Tổ sư Minh Đăng Quang trong Chơn lý “Khất sĩ”: “Người có học có biết quý hơn người không học không biết, vì có học mới hết mê lầm”, qua đó nhấn mạnh: “Người tu phải học diệu pháp, tức là pháp đưa đến diệu nghĩa, diệu lý và diệu quả, chứ không chỉ dừng ở thiện pháp thông thường”.

Theo Trưởng lão Hòa thượng, con đường tu tập là đi tìm cái chí thiện, cái vô thượng tối thắng an tịnh đạo độ và mục đích cứu cánh của đạo chính là Niết-bàn. Ngài Xá-lợi-phất định nghĩa: “Niết-bàn là đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si”. Như vậy, người đạt đến các tầng Thánh quả từ Nhập lưu cho đến A-la-hán đều tuần tự đoạn trừ dần những phiền não, từ thô đến tế, cho đến khi tâm hoàn toàn thanh tịnh.

Trưởng lão Hòa thượng khuyên đại chúng hãy tri túc với vật chất, nhưng tuyệt đối không tri túc trong việc học pháp, mà phải tha thiết học, vì việc nghe pháp có năm lợi ích lớn: Nghe được điều chưa từng nghe, làm trong sạch điều đã nghe, đoạn trừ nghi hoặc, làm cho tri kiến được chánh trực, làm cho tâm được tịnh tín, tức sanh khởi niềm tin bất động đối với Tam bảo. “Chính niềm tin bất động ấy là nền tảng để bước vào Sơ quả Nhập lưu,  cửa ngõ đầu tiên của Thánh đạo”, Trưởng lão Thiền chủ khẳng định.

Dẫn Kinh Xóm Ngựa (Trung Bộ kinh Số 39), Trưởng lão Hòa thượng nhấn mạnh: “Người xưng là Sa-môn, Tỳ-kheo phải có hạnh Sa-môn chân chánh, tức có tàm quý đối với ác pháp, có thân - khẩu - ý hành thanh tịnh và mạng sống thanh tịnh. Việc tự xét lại hạnh Sa-môn (tàm quý, thân - khẩu - ý thanh tịnh, mạng sống thanh tịnh, tiết độ ăn uống, chú tâm cảnh giác, chánh niệm tỉnh giác) là để người tu tiến dần đến Sơ quả Nhập lưu. Như vậy, để vô được Sơ quả Nhập lưu cần có 4 điều: Ý kiến bậc Thánh, bậc chân nhân (gặp đúng người nói pháp giải thoát); Nghe pháp bậc thánh, bậc chân nhân; Nghe cho thuần thục (vô Sơ Qquả Nhập lưu gọi là thuần thục); Tu tập pháp bậc Thánh, bậc chân nhân”.

Cuối thời pháp vào buổi sáng, Trưởng lão HT. Giác Giới sách tấn chư hành giả: “Hãy quyết tâm, chí ít trong khóa tu này, mỗi hành giả phải tìm cầu cho được Sơ quả. Nếu chưa vô Sơ quả thì chỉ mới nghe diệu pháp, chưa thật sự thấy con đường đi”.

*****

Bước vào thời pháp vào chiều cùng ngày, Trưởng lão HT. Giác Giới đã nối tiếp buổi giảng với đề tài: “Bối cảnh lịch sử, sự dung hợp truyền thống và điều kiện để thành tựu Đạo quả”. Qua đó giúp đại chúng có cái nhìn toàn diện về tiến trình phát triển của Phật giáo, về vai trò dung hợp của Hệ phái Phật giáo Khất sĩ, cũng như xác định rõ những yếu tố căn bản để hành giả đạt được chánh tri kiến và đạo quả giải thoát.

Theo đó, Trưởng lão Hòa thượng đã đề cập đến sự phân hóa của Phật giáo sau thời Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn. Chỉ 100 năm sau, Phật giáo đã chia thành nhiều bộ phái lớn, trong đó nổi bật là Thượng tọa bộ, Đại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ. Thượng tọa bộ sau đó tách thành 11 bộ phái, còn Đại chúng bộ chia thành 9 phái nhỏ, dẫn đến một thời kỳ phân mảnh sâu rộng trong nội bộ Phật giáo. Ngay cả khi Phật giáo được truyền sang Tích Lan thời vua A Dục, truyền thống Thượng tọa bộ vẫn tiếp tục chia rẽ.

Trưởng lão Hòa thượng nhận định, sự phân hóa ấy phản ánh quy luật tự nhiên của tư tưởng và cũng là bài học cảnh tỉnh cho Tăng đoàn ngày nay, khi ngay trong một Tịnh xá hay một Hệ phái, quan điểm và phương pháp tu tập giữa các hành giả vẫn có thể tồn tại sự khác biệt.

Từ bối cảnh đó, Trưởng lão Hòa thượng liên hệ đến sự xuất hiện của Hệ phái Phật giáo Khất sĩ Việt Nam, do Đức Tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập, với chí nguyện “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp”. Theo đó, Tổ sư đã dung hợp tinh hoa Nam truyền và Bắc truyền, thiết lập nên con đường trung đạo đặc sắc giữa hai truyền thống, nhằm tái lập đời sống phạm hạnh và tinh thần khất sĩ nguyên thủy.

Dựa theo Chơn lý “Y Bát chơn truyền”, Trưởng lão Hòa thượng nhắc lại các cột mốc lịch sử tiêu biểu như: năm 1946, Đức Tổ sư từ Campuchia trở về Nam Việt, thực hành giới luật Tăng-già tại Mỹ Tho và đến năm 1948, Ngài chính thức thâu nhận đệ tử, thành lập đoàn Du Tăng Khất sĩ đầu tiên. Trong suốt khoảng thời gian sau đó, Tổ sư đã dày công thuyết giảng và để lại pháp bảo cho Hệ phái, đó là Bộ Chơn lý. Trưởng lão HT. Giác Giới cho biết, cố Hòa thượng Minh Châu từng dành 8 tháng nghiên cứu toàn bộ Chơn lý và nhận định: “Bộ Chơn lý mà Tổ sư Minh Đăng Quang viết như vậy, phải là người đắc đạo mới viết được”.

Theo Trưởng lão HT. Giác Giới, Tổ sư đã dung hòa hai truyền thống Nam - Bắc nhằm hóa giải những định kiến đối nghịch, đồng thời triết lý hóa các khái niệm Đại thừa để phù hợp tinh thần Khất sĩ, như:

“Sự dung hợp này cho thấy trí tuệ thâm sâu và tinh thần đại đồng của Tổ sư, giúp Phật giáo Việt Nam có bản sắc riêng, vừa giữ nguyên gốc, vừa hòa hợp trong bối cảnh hiện đại”, Trưởng lão Hòa thượng nhận định.

Quay trở lại chủ đề “điều kiện thành tựu đạo quả”, Trưởng lão Hòa thượng nhấn mạnh: “Chánh tri kiến là điều kiện tiên quyết của mọi người tu, dù là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, hay cư sĩ tại gia. Nếu không có chánh tri kiến thì mọi công phu tu tập đều trở nên tu mù, luống công vô ích. Người tu thiếu tri kiến như chuỗi người mù ôm lưng nhau mà đi, không có hướng đạo. Vì thế, hành giả phải yết kiến bậc Thánh, nghe pháp bậc Thánh, thuần thục và tu tập pháp bậc Thánh, mới có thể chứng đạt Sơ quả Nhập lưu, cửa ngõ của giải thoát”.

Trích từ Kinh Khúc gỗ, Trưởng lão Thiền chủ ví hành trình tu học như khúc gỗ trôi trên sông Hằng, nếu không vướng tám chướng ngại thì tâm tất yếu sẽ thuận dòng pháp lưu, hướng về biển lớn Niết-bàn. Tám chướng ngại được chỉ rõ gồm: Đâm bờ bên này – chấp sáu căn; Đâm bờ bên kia – chấp sáu trần; Chìm giữa dòng – bị tham đắm cuốn vào ái dục; Mắc cạn – ngã mạn, không chịu học hỏi; Bị người nhặt – hệ lụy với cư sĩ; Bị phi nhân nhặt – đắm trước phước báo trời người; Mắc xoáy nước – bị năm dục lôi kéo; Mục nát bên trong – tâm bị ô nhiễm bởi tham - sân - si.

Khép lại buổi pháp thoại, Trưởng lão HT. Giác Giới khuyến tấn đại chúng: “Không ai có thể tu giùm cho ai. Mỗi hành giả cần nỗ lực để ít nhất trong đời này chứng được Sơ quả Nhập lưu. Có chánh tri kiến mới có hướng đi, còn không thì người tu như thuyền không lái, như ngựa không cương, chỉ mãi trôi nổi giữa dòng sanh tử”.

 

Một số hình ảnh được ghi nhận: