Kệ trích lục

Tinhhoabiyeu

 

KỆ TRÍCH LỤC

Trong quyển “Đức Phật và Phật Pháp” của Đại đức Nàrada (từ văn xuôi phổ ra văn vần)

Cùng quý Sư cô,

Quyển “Đức Phật và Phật Pháp” là quyển sách rất cần thiết cho Ni giới Khất Sĩ chúng ta. Quyển sách này đặc sắc nhờ tác giả uyên thâm kinh điển Nam tông, nhất là những đoạn trích diễn kinh Pàli có bằng chứng cụ thể. Vì muốn thấm nhuần những giáo lý dễ thuộc, dễ nhớ nên tôi cố diễn ít đoạn trong sách này ra văn vần để tiện đọc tụng.

Tuy nhiên, cũng có ít bài chỉ nhờ vào câu gợi ý rồi tôi thêm phần sáng tạo, vì đây là những bài phụ thuộc nhằm tăng bổ kiến thức và lòng hâm mộ giáo lý mà thôi. Thí dụ như hai bài kệ đầu tiên là do rút ý ở bài “LỜI TỰA” của quyển sách.

Xin quý vị đối chiếu hai bổn rồi nghiên cứu và góp ý xây dựng cho hoàn hảo hơn.

Quyển “Đức Phật và Phật Pháp” là một nguồn thơ vô tận đối với những người con Phật, chúng ta nên bắt nguồn từ đây để sáng tác hầu ca ngợi đạo thiêng.

Để đáp tạ quý vị gánh vác Phật sự thay thế tôi trong thời kỳ tịnh dưỡng, nên công đức này xin hồi hướng đến quý vị và nguyện đồng về xứ Phật với nhau.

Về tập này chỉ quay đủ số chia cho quý Sư cô và làm tài liệu hoặc chỉ các em Phật tử học (chưa in được). Số đề ngay đầu bài kệ là số trang trong quyển “Đức Phật và Phật Pháp”.

 

Ni trưởng Thích nữ HUỲNH LIÊN

 


KỆ TRÍCH LỤC

 

Trang 4:

Ngàn năm dân tộc trưởng thành,

Từ trong tổ ấm gia đình đạo thiêng.

Đàn con giống mẹ dịu hiền,

Thành phần di sản thiêng liêng tuyệt vời.

 

Trang 6:

Hãy sử dụng thời giờ xứng đáng,

Kiếp sống còn rất ngắn ai ơi.

Thực hành đạo pháp độ đời,

Cho quê hương được nguồn vui thanh bình.

 

Trang 13:

Dứt các điều ác,

Làm các điều lành,

Thanh lọc tâm ý.

Lời Phật dạy rành.

 

Trang 14:

Trường tu học như trường tranh đấu,

Vọng tâm là địch thủ hiểm nguy.

Tận trừ tham dục sân si,

Kiên trì tam học hộ trì chân tâm.

Chốn tịch mịch trầm ngâm nghĩ ngợi,

Đó là phương thắng lợi dễ dàng.

Gần thiện tri thức dẫn đường,

Không lo thảm hại chiến trường mạng chung.

 

Trang 14:

Con người sanh ra không phải để phục vụ Phật giáo. Nhưng Phật Giáo được thành lập là để phục vụ con người.

 

Trang 15:

Ngày ngày cuốc đất Tây Phương,

Trồng hoa Bát Nhã xông hương Bồ-đề.

 

Tin ta mà chẳng hiểu ta,

Ấy là bài bác, ấy là khinh chê.

 

Phật truyền cao thượng Pháp môn,

Thật hành đúng đắn là tôn trọng Ngài.

 

Trang 23:

Một chúng sanh duy nhất,

Một nhân vật phi thoàng.

Vì hạnh phúc nhân loại,

Mà xuất hiện thế gian.

(Tăng Nhất A Hàm)

 

Trang 58:

Hoa sen tinh khiết thơm tho,

Mọc lên giữa chốn bùn nhơ ao tù.

Đức Phật trí, dũng, bi, từ,

Hiện ra giữa chốn phàm phu tục trần.

 

Trang 60:

Ta là hải đảo của ta,

Nương mình vững chắc hơn là nương ai.

 

Trang 61:

Phật là một người thoàng,

Trở thành bậc phi thoàng.

Nhờ tự lực tu chứng,

Đạo quả chẳng ai ban.

 

Trang 64:

Đức Phật

Tinh hoa toàn thiện tự phương Đông,

Đức Phật cao siêu mức tột cùng.

Chứng quả Niết-bàn vươn tự lực,

Vạch đường giải thoát rạng kỳ công.

Từ bi cứu khổ lòng vô ngại,

Trí huệ ban vui cõi đại đồng.

Thế giới chuyển mình phăng ánh sáng,

Tinh hoa toàn thiện tự phương Đông.

 

Trang 65:

Nơi Đức Phật, con người thực tế,

Không thần linh tô vẽ hoang đường.

Lòng nhiệt thành nếp sống giản đơn,

Tự nỗ lực phát huy ánh sáng.

Dạy nhân loại những lời chánh đáng,

Bao gian lao hoạn nạn đời ta.

Đều do lòng ích kỷ sanh ra,

Tu chuyển hướng lợi tha phục vụ.

Trước khi hạnh trang nghiêm đầy đủ,

Trước khi tâm vắng lặng hòan toàn,

Ngưng sống cho mình kiểm soát giác quan,

Khi đắc quả vượt trên nhân loại.

Lời trong sạch đem ra chỉ dạy,

Kêu gọi người hãy tự quên mình.

Đem tình thương phổ cập nhân sanh,

Tạo đời sống an lành hạnh phúc.

Lời giáo huấn luôn luôn chân thật,

Thời cơ nào, nhân vật nước nào.

Quan niệm nay, thế hệ tân trào,

Vẫn tương hợp ngàn xưa giáo lý.

 

Trang 71:

Bồ-đề

Người nào đã lánh xa thế tục,

Thanh lọc tâm thu thúc lục căn.

Không còn ngã mạn kiêu căng,

Sống đời phạm hạnh gọi rằng Thánh nhơn.

 

Trang 72:

Thật là hạnh phúc,

Sống ẩn dật thoát trần.

Thật là hạnh phúc,

Biết thu thúc lục căn.

Thật là hạnh phúc,

Trừ ái dục tiêu tan.

Tối thượng hạnh phúc,

Phá ngã chấp hòan toàn.

 

Trang 73:

Kệ khải hoàn

Trải bao nhiêu kiếp luân hồi,

Ta đi đi mãi tìm hòai không ra.

Ai là người thợ cất nhà,

Dựng nên kiếp sống, tạo ra cuộc đời.

Hỡi này người thợ kia ơi !

Ta vừa tìm gặp được ngươi đây là.

Từ nay ngươi khỏi cất nhà,

Những sườn cùng nóc ta đà phá tan.

Như Lai đã chứng Niết-bàn,

Tận trừ ái dục vào hàng Vô sanh.

 

Trang 78:

Dòng tham ái đen ngòm đêm tối,

Người đắm chìm không lối thoát ra,

Si mê bao phủ mây mờ,

Pháp môn thâm diệu bây giờ thấy đâu.

 

Trang 79:

Xin Thế Tôn ban truyền Chánh Pháp

Mắt chúng sanh bụi cát nhiễm nhơ

Trầm luân khổ hải đợi chờ,

Pháp môn tế độ kịp giờ cứu nguy.

 

Trang 80:

Phật dùng huệ nhãn xét xem,

Thấy đời như thể đám sen trong hồ,

Cọng chìm trong nước bùn nhơ,

Cọng vừa ló dạng nhấp nhô ngoi đầu.

Cọng lên khỏi nước từ lâu,

Phất phơ thanh thoát, đẹp màu thơm hương.

 

Mở rồi cánh cửa Vô sanh,

Để cho ai có duyên lành muốn vô.

 

Trang 94:

Chớ thái quá cũng đừng bất cập,

Lợi dưỡng và ép xác đều sai.

Cực đoan phải bỏ cả hai,

Theo đường trung đạo Như Lai thực hành.

 

Tứ Diệu Đế

Chơn lý đầu tiên là Khổ đế,

Dẫy đầy nỗi khổ cõi trần gian.

Sanh, già, đau, chết thêm phiền não,

Nước mắt nhơn sanh bốn biển tràn.

 

Chơn lý thứ hai là Tập đế,

Nguyên nhân ái dục đắm phù hoa.

Nguyên nhân ái dục mê đời sống,

Ái dục triền miên cõi ái hà.

 

Chơn lý thứ ba là Diệt đế,

Diệt trừ ái dục phá vô minh

Niết-bàn vắng lặng không phiền não,

Bặt nẻo luân hồi dứt tử sanh.

 

Chơn lý thứ tư là Đạo đế,

Con đường Bát Chánh tuyệt cao siêu.

Nhãn quan mở rộng tầm tri kiến,

Tứ quả lần hồi đạt mục tiêu.

 

Trang 124:

Ngọn cờ Chánh Pháp

Ngọn cờ Chánh Pháp phất cao,

Bốn ngàn tám vạn trần lao qui hàng.

Tiến lên hội chúng áo vàng,

Ra đi khắp chốn mở mang đạo mầu.

Người đời trói buộc khổ đau,

Pháp môn giải thoát truyền trao độ đời.

Xuất gia cao thượng tuyệt vời,

Không còn luyến ái xa rời nhiễm ô.

Tạm thời nếp sống đơn sơ,

Cư trần bất nhiễm lòng lo độ đời.

Hỡi người mê đắm chơi vơi,

Bước lên thuyền Giác sống đời thiêng liêng.

 

Trang 147:

Phật dạy La Hầu La

Trước khi hành động nghĩ suy

Hại mình, hại chúng bỏ đi đừng làm.

Việc nào lành tốt an vui,

Lợi mình, lợi chúng liệu toan thực hành.

 

Các pháp nhơn duyên sanh,

Cũng theo nhơn duyên diệt.

Nhơn duyên sanh diệt này,

Như Lai hằng tuyên thuyết.

 

Trang 148:

Nếp sống đạo hạnh

Năm điều lạc thú cõi đời,

Phải nên từ bỏ kịp thời lánh xa.

Niềm tin cắt ái ly gia,

Dứt rồi phiền não thoát ra hồng trần.

Chọn bạn tri thức nương gần,

Tìm nơi thanh vắng ân cần luyện tâm.

Canh chừng dục vọng diệt phăng,

Giới nghi kiềm chế lục căn giữ gìn.

Vui trong nếp sống trì bình,

Vừa lòng phẩm thực đi xin mỗi ngày,

Bát y bốn vật cùng xài,

Không nên luyến ái dồi mài cao sang.

Nó là bụi cát trần gian,

Trả về cát bụi đừng mang nặng nề.

Xa rời hào nhoáng đẹp xuê,

Xa rời những chỗ si mê dục tình.

Chú tâm thiền định tịnh thanh,

Vững vàng phát triển hạnh lành quả cao.

 

Trang 151:

Lời của Đại đức La Hầu La

Đời ta diễm phúc hai lần,

Làm con Đức Phật hầu gần Pháp môn.

Tu hành chứng ngộ lý chơn,

Không còn trở lại thế gian luân hồi.

Quả A La Hán đắc rồi,

Xứng đáng nhận lãnh của người cúng dâng.

Khá thương sanh chúng cõi trần,

Dục tình bao phủ chơn tâm mê mờ.

Cá nằm trong rọ ngẩn ngơ,

Bao giờ thức tỉnh, bao giờ thoát ly?

Ta nay cắt dứt mê si,

Xây lưng thế cuộc, bỏ đi ngũ trần.

Tận trừ cội rễ tham sân,

Lửa lòng dập tắt lâng lâng nhẹ nhàng.

 

Trang 178:

Phật dạy ông Cấp Cô Độc gieo trồng phước đức

Muốn tìm phước đức,

tập bố thí cúng dường.

Phước đức nhiều hơn,

nên dựng xây Tu viện.

Phước đức miên viễn,

phải trì giới quy y,

Phước đức huyền vi,

niệm từ bi thiền định.

Phước đức tuyệt đỉnh,

đắc trí huệ Niết-bàn.

(Kinh Trường A Hàm)

 

Trang 163:

Lời của Đại đức A Nan Đa

Hỡi này cái hủ da giả dối,

Trong chứa đầy cả khối trược nhơ,

Khổ sầu bịnh tật mưu cơ,

Bên ngoài sơn phết phỉnh phờ được ai?

 

Trang 177:

Lần đầu tiên Trưởng giả Cấp Cô Độc lấy làm hoan hỷ yết kiến Đức Phật và cung kính hỏi thăm: Ngài có được yên vui không?

Đức Phật trả lời:

Lúc nào cũng được yên vui,

Đắc xong quả Thánh, diệt rồi lửa tâm.

Không còn phiền não lửa trần,

Cuộc đời sống mới hòan toàn tịnh thanh.

 

Trang 313:

Người cao quý do lòng đạo đức,

Không phải do giai cấp của tiền.

 

Trang 211:

Khi Hoàng thái hậu, Nội tổ của Vua Kosala băng hà, Đức Vua lấy làm sầu muộn đến bạch với Đức Phật rằng: Ông có thể đổi bất cứ vật gì của ông để tìm lại sự sống của người mà ông quí trọng và trìu mến như Mẹ.

Đức Phật an ủi như sau:

Món đồ gốm có ngày bể nát,

Tánh bể kia theo sát món đồ.

Thân ta cái chết chực hờ,

Luôn luôn “cái tử” đợi chờ “cái sanh”.

 

Trang 221:

Gieo giống trường sanh

Một thời kia Đức Phật ở xứ Ma Kiệt Đà trong một làng theo Bà La Môn Giáo. Lúc ấy lối năm trăm tay cày sắp sửa ra đồng làm việc cho một vị Bà La Môn. Đức Phật đắp y mang bát đến chỗ người đang phân phối vật thực và đứng sang một bên. Vị Bà La Môn ấy ban đầu vấn nạn Phật, sau rồi lại được Phật cảm hoá.

Bà La Môn:

Ra công cày cấy nhọc nhằn,

Mỗi ngày đúng bữa tôi ăn phải rồi.

Còn ông cũng phải như tôi,

Cấy cày có lúa gạo rồi sẽ ăn.

Phật nói:

Tôi nay nào khác chi ông,

Cấy cày tôi đã làm xong hết rồi.

Bà La Môn:

Nhưng tôi nào thấy ruộng cày,

Trâu cày, lúa giống, vậy Ngài để đâu ?

Đức Phật:

Đức tin hột giống nhiệm mầu,

Đường cày trí huệ ăn sâu tâm điền.

Nước mưa giới luật tưới lên,

Trâu bò tinh tấn bền chuyên vững vàng.

Thành công thực hiện Niết-bàn,

Gieo duyên Bất tử dự hàng Vô sanh.

Bà La Môn:

Khấu đầu đảnh lễ Thế Tôn,

Tôi xin dâng một bát cơm tín thành.

Ngài vừa gieo giống Trường sanh,

Loại cây Bất tử trái lành kết đơm.

Đức Phật:

Ngày xưa chư Phật ba đời,

Không dùng vật thực do lời giảng Kinh.

Đó là chánh mạng rành rành,

Đúng theo Giới luật dám xin khước từ.

 

Trang 231:

Người ta chế ngự loài voi,

Bằng cây, bằng móc, bằng roi, bằng xiềng.

Tay không khí giới thản nhiên,

Đức Phật chỉ lấy đức hiền thắng tâm.

 

Trang 235:

Kim ngôn ứng dụng khắp đời,

Phật đem phỉ lạc cho người thông minh.

Với người bậc trí trung bình,

Phật nâng kiến thức quang minh kịp kỳ.

Với người mê muội ngu si,

Phật trừ ám chướng thoát ly vọng tà.

 

Trang 239:

Bảy pháp bất thối chuyển

Ngày nào Tăng chúng hiệp đoàn,

Siêng năng hội họp luận bàn Pháp môn.

Thuận hòa đoàn kết luôn luôn,

Luật nghiêm giới cấm bảo tồn khít khao.

Kỉnh tôn Trưởng lão hạ cao,

Vâng lời quản chúng nâng cao giáo quyền.

Dứt trừ ái dục não phiền,

Thích nơi thanh vắng tham thiền luyện tâm.

Dung hòa phát triển Tòng lâm,

Bạn bè nương tựa xa gần sống chung.

Ngày nào Tăng chúng tròn xong,

Bảy điều bất thối thành công vẹn toàn.

(Bảy pháp bất thối chuyển và Bảy điều thạnh pháp có trong Kinh Trường A Hàm quyển hai đoạn một. Bổn dịch của Thượng tọa Thích Trí Đức).

 

Trang 240:

Bảy điều thạnh pháp

Ngày nào dứt muốn ham thế sự,

Không biếng lười thích ngủ lo ăn,

Không luận bàn chuyện thế việc trần,

Không phe đảng dể duôi giới luật,

Không khoe khoang khi mình thiếu đức,

Không nhiễm ô vật chất phù hoa,

Không nương gần bè bạn xấu xa,

Bảy điều kiện thạnh hưng Chánh Pháp.

 

Trang 266:

Thôi A Nan đừng buồn, đừng khóc,

Sanh trong đời có hợp phải ly.

Xác thân tứ đại kéo trì,

Sanh già bịnh chết bỏ đi nhẹ nhàng.

 

Trang 274:

Những kỳ kết tập tam tạng

Phật nhập Niết-bàn ba tháng,

Năm trăm vị La Hán,

Kết gom các Phật ngôn,

Sắp xếp thành ba Tạng.

Sau đó một trăm năm,

Lần thứ nhì kết tập.

Hai trăm băm sáu năm (236),

Lần thứ ba kết tập.

Lần thứ tư kết tập,

Cách Phật năm trăm năm,

Kinh được ghi trên lá,

Đầu tiên tại Tích Lan.

 

Trang 286:

Chỉ tự ta dữ lành phước tội,

Chỉ tự ta nghiệp đổi nhơn thay,

Tự ta trau sửa dồi mài,

Sạch nhơ không thể nhờ ai liệu giùm.

(Pháp Cú 145)

 

Trang 288:

Cảnh giác

- Không nên tin điều gì,

chỉ vì nghe người ta đồn đãi.

- Không nên tin điều gì,

chỉ vì do tục xưa truyền lại.

- Không nên tin điều gì,

chỉ vì được Kinh sách chép ghi.

- Không nên tin điều gì,

chỉ vì bậc tu hành chỉ dạy.

- Ta chỉ tin điều gì,

do nhận thức thông thái.

 

Trang 291:

Người hay cầu nguyện vái van,

Là còn ích kỷ tham lam cho mình.

Đeo theo thần thánh cầu xin,

Sao bằng thiền định tự mình trau tâm.

 

Trang 292:

Nghe chỉ trích mà lòng giận oán,

Lửa xông mờ xét đoán khó minh,

Đã không thấy lỗi phần mình,

Còn gây thêm nỗi bất bình trái oan.

 

Trang 293:

Những ai ngửa mặt phun trời,

Tự nhiên nước miếng lại rơi mặt mình.

 

Trang 294:

Giới nghi như cánh loài chim,

Bước chân thần túc bay tìm cao siêu.

 

Trang 297:

Như tình mẹ ân cần bảo bọc,

Đứa con thơ duy nhứt của mình.

Lòng từ đối với chúng sanh,

Tình thâm như thể mẹ hiền yêu con.

(Kinh Từ Bi)

 

Trang 297:

Muôn loài nào khác chi ta,

Mến yêu đời sống lánh xa tai nàn.

Tình thương ta phải rải ban,

Chớ nên giết hại đừng làm khổ đau.

(Pháp Cú 129)

 

Trang 299:

Dầu có Phật hay không có Phật,

Lẽ đương nhiên định luật trường tồn.

Khổ não, vô ngã, vô thoàng,

Tiến hành lưu chuyển luôn luôn  không ngừng.

Phật chứng ngộ chỉ đường chứng ngộ,

Xác định rành tuyên bố rõ ràng.

Hữu tình vạn vật trần gian,

Thảy đều vô ngã, vô thoàng, khổ đau.

 

 

Trang 299:

Điều khổ não là điều duy nhứt,

Phật dạy ta chấm dứt khổ đau,

Thực hành nếp sống thanh cao,

Là ta dứt khổ, dứt đau tự mình.

 

Trang 300:

Giáo pháp Phật một mùi giải thoát,

Nước đại dương một vị mặn mòi.

 

Tự ta nương tựa lấy ta,

Vững như hải đảo phong ba chẳng sờn.

 

Trang 302:

Sự nhận định trần gian khổ não,

Nào phải đâu Phật giáo bi quan,

Chỉ phương thuốc, vạch con đàng,

Niết-bàn diệt khổ, lạc quan miên trường.

 

Trang 303:

Ngày nọ có vị trời đến hầu Phật và hỏi:

Những người lui tới rừng già,

Sống đời đạo hạnh như là Thánh nhân.

Mỗi ngày ăn chỉ một lần,

Tại sao coi họ có phần thong dong?

Đức Phật giải đáp:

Chuyện qua họ chẳng để lòng,

Những điều chưa tới họ không mơ màng.

Hiện thời tâm trí rảnh rang,

Cho nên họ được nhẹ nhàng thong dong.

 

Pháp Phật chẳng có bí truyền,

Cũng như ánh sáng khắp miền chói chang.

(Kinh Tăng Nhất A Hàm)

 

Trang 312:

Sanh vào dòng sang,

Chưa hẳn thật sang.

Sanh vào dòng hèn,

Chưa hẳn thật hèn.

Sang hèn do nếp sống,

Xấu tốt cùng dữ hiền.

 

Trang 317:

Ruồi vương lưới nhện mạng cùng,

Người vương lưới dục vẫy vùng khó ra.

Con đường cắt ái ly gia,

Dẹp đi thế sự bỏ xa ngũ trần.

Thảnh thơi thanh tịnh vô ngần.

 

Trang 320:

Con từ đâu đến cùng cha mẹ?

Rồi một mình lặng lẽ ra đi.

Không kêu gọi, khó kéo trì,

Đến sao đi vậy, lấy gì sầu than!

 

Trang 323:

Cũng thân này tạo gây nghiệp ác,

Cũng thân này tu các hạnh lành.

Cũng thân này mê vọng chúng sanh,

Cũng thân này giác chơn thành Phật.

KHỔ: Cũng thân này khổ đau chứa chất,

TẬP: Cũng thân này ái dục buộc ràng.

DIỆT: Cũng thân này tiến tu diệt khổ,

ĐẠO: Cũng thân này khai đạo Niết-bàn.

Cũng thân này cội nguồn sanh tử,

Cũng thân này đạo quả Niết-bàn.

 

Trang 325:

Mắt trần gian thấy lớp ngoài hiện trạng,

Mắt Thánh nhơn thấu thật tướng Chơn như.

Kiếp trần tiêu, trưởng, vinh, hư.

Sanh đây mất đó khổ sầu đòi phen.

 

Sông nào đắm bằng sông ái dục,

Ngục nào ghê bằng ngục giận sân.

Lửa nào nóng thể dục tham,

Lưới nào trói buộc cho bằng vô minh.

(Pháp Cú 251)

 

Trang 331:

Hai điều hạnh phúc tuyệt vời,

Một thời “dứt tríu” hai thời “dứt mê”.

 

Trang 334:

Dầu ai bình phẩm thế nào,

Dầu sai dầu đúng, dầu sao mặc dầu.

Giữ lòng trong sạch cần tu,

Tâm từ mở rộng suối từ chảy tuôn.

Niệm lành bao quát càn khôn,

Thương trùm vạn vật độ luôn muôn loài.

 

Trang 345:

Nghiệp báo

Người nào trọn kiếp sát sinh,

Vay máu trả máu yểu hình mạng vong.

Người nào trọn kiếp trau lòng,

Giúp người cứu vật thọ chồng tuổi cao.

Người nào độc ác gươm đao,

Tấm thân oằn oại yếu đau dật dờ.

Người nào hiền đức nhu hòa,

Tấm thân mạnh khoẻ đẫy đà kiện khang.

Người nào chưởi mắng tục tằn,

Tấm thân xấu xí hận sân tạo thành.

Người nào nhẫn nhục ép mình,

Tấm thân xinh đẹp nhân lành tạo nên.

Người nào tật đố bon chen,

Nói làm không được lạ quen tán thành.

Người không tật đố tham ganh,

Nói làm được chúng hoan nghinh  thuận tùng.

Người không bố thí vật dùng,

Tánh tình keo kiết nghèo cùng kiếp sau.

Người hay bố thí giúp nhau,

Lòng giàu nhân đức của giàu đụn kho.

Người nào ngã mạn hồ đồ,

Kiếp sau nghiệp báo làm cho thấp hèn.

Người nào phục thiện tự khiêm,

Kiếp sau sang trọng quí quyền cao ngôi.

Người không nương học trau dồi,

Cuộc đời ngu dốt thiệt thòi kiếp sau.

Người tìm nương học dồi trau,

Thông minh trí tuệ thanh cao đời đời.

 

Trang 499:

Đố ai chặt hết cây rừng,

Để ta ví dụ gom từng cọng cây.

Đây là mẹ của tôi đây,

Đây mẹ của mẹ, kiếp này của tôi.

Cây đã hết chưa rồi kiếp sống,

Cây vô cùng kiếp cũng vô biên.

Luân hồi vô tận triền miên,

Khó tìm được kẻ không quen thuộc mình.

 

Trang 500:

Cuộc hành trình diệu viễn

Xương một người trong vô lượng kiếp,

Nếu chất chồng cao biết bao to.

Cao như ngọn núi khổng lồ,

Cao như thạch trụ thập thò mây xanh.

Khổ tử biệt thâm tình phân rẽ,

Nước mắt rơi bốn bể không bằng.

Hành trình diệu vợi xa xăm,

Khổ đau, đày đọa, âm thầm cô đơn.

Dừng mỗi trạm thay thân đổi kiếp,

Tội mình làm mang nghiệp lợn trâu.

Nhổ lông, thọc huyết, chặt đầu,

Máu con đổ giọt bể sâu dẫy tràn.

Tội trộm cướp, dâm loàn nghiệt ngã,

Tội sát sanh, dối trá gạt lường.

Khi thời hại chúng tai ương,

Thời khi chúng hại máu xương trả đền.

Đã lâu rồi non phiền biển khổ,

Đã lâu rồi máu đổ lệ tuôn.

Dẫy đầy nghĩa địa xác con,

Con đà chán kiếp sanh tồn tử vong.

Lâu lắm rồi con trông đợi mãi,

Đủ lắm rồi con phải quay lưng.

Tìm con đường khác dời chân,

Lánh xa tất cả hồng trần hỡi ơi!

 

Trang 577:

Lửa hồng trần

Lửa hồng trần rần rần cháy dậy,

Chất liệu nào bén nhạy thế kia ?

Đó là ngọn lửa mê si,

Sắc trần mắt thấy tức thì nấu nung.

Sự ham muốn nằm trong ngọn lửa,

Sắc trần như củi chứa bổi mồi.

Tham, sân, si, dục dấy rồi,

Sanh, già, đau, chết, luân hồi khổ thân.

 

Lửa hồng trần rần rần cháy dậy,

Chất liệu nào bén nhạy thế kia ?

Đó là ngọn lửa mê si,

Thinh trần tai lắng tức thì nấu nung.

Sự ham muốn nằm trong ngọn lửa,

Thinh trần như củi chứa bổi mồi.

Tham, sân, si, dục dấy rồi,

Sanh, già, đau, chết, luân hồi khổ thân.

 

Lửa hồng trần rần rần cháy dậy,

Chất liệu nào bén nhạy thế kia ?

Đó là ngọn lửa mê si,

Hương trần mũi ngửi tức thì nấu nung

Sự ham muốn nằm trong ngọn lửa,

Hương trần như củi chứa bổi mồi.

Tham, sân, si, dục dấy rồi,

Sanh, già, đau, chết, luân hồi khổ thân.

 

Lửa hồng trần rần rần cháy dậy,

Chất liệu nào bén nhạy thế kia ?

Đó là ngọn lửa mê si,

Vị trần miệng nếm tức thì nấu nung.

Sự ham muốn nằm trong ngọn lửa,

Vị trần như củi chứa bổi mồi.

 

Tham, sân, si, dục dấy rồi,

Sanh, già, đau, chết, luân hồi khổ thân.

 

Lửa hồng trần rần rần cháy dậy,

Chất liệu nào bén nhạy thế kia ?

Đó là ngọn lửa mê si,

Xúc trần thân chạm tức thì nấu nung.

Sự ham muốn nằm trong ngọn lửa,

Xúc trần như củi chứa bổi mồi.

Tham, sân, si, dục dấy rồi,

Sanh, già, đau, chết, luân hồi khổ thân.

 

Lửa hồng trần rần rần cháy dậy,

Chất liệu nào bén nhạy thế kia ?

Đó là ngọn lửa mê si,

Pháp trần ý tưởng tức thì nấu nung.

Sự ham muốn nằm trong ngọn lửa,

Pháp trần như củi chứa bổi mồi.

Tham, sân, si, dục dấy rồi,

Sanh, già, đau, chết, luân hồi khổ thân.

 

Bậc trí giả chuyên cần quán tưởng,

Giác ngộ rồi nhàm chán lục căn,

Lục thức, lục nhập, lục trần,

Dầu không vui khổ hay phần khổ vui.

Do nhàm chán xa rời luyến ái,

Lòng dửng dưng trạng thái thoát trần.

Sống đời phạm hạnh Thánh nhân,

Thoát ra khỏi chốn hồng trần lửa thiêu.

 

Trang 574:

Lời của đức Xá Lợi Phất

Chết hay sống ta không quản ngại,

Giữ thân này hay phải bỏ đi,

Bỏ đi ta bỏ tức thì,

Với tâm sáng suốt có gì sợ lo.

Cũng không phải hững hờ sự chết,

Cũng không lòng ham thích kiếp sanh,

Ta đang chờ đợi giờ lành,

Như người làm mướn hòan thành công phu.

 

Trang 590:

Mang thân xác uế thai phàm,

Vạch đường giải thoát thế gian nương nhờ.

 

Trang 592:

Bị nhục mạ không gây nhục mạ,

Bị oán thù không trả oán thù.

Ví như đất mẹ lặng lờ,

Âm thầm chịu đựng sạch nhơ sá gì.

 

Trang 607:

Người dư dả vẫn còn ham muốn,

Tôi ít oi cảm thấy vừa lòng,

Họ nghèo trong tiền rừng bạc biển,

Tôi giàu trong áo vá túi không.

 

Trang 632:

Lâm nguy chớ vội cầu xin,

Hãy cầu nghị lực tự mình vượt qua.

Khổ đau chớ khá kêu ca,

Chỉ cần trí dõng điều hòa an nhiên.

Đừng lo sợ, chớ ưu phiền,

Kiên trì phấn đấu mình nên độ mình.

 

Trang 673:

Khi thăng trầm, lúc vui buồn,

Giữ tâm như đất luôn luôn không phiền.

Dầu dơ sạch, dầu chê khen,

Ví tâm như đất thản nhiên mặc tình.

 

Trang 674:

Đãi người, người chẳng chịu ăn,

Tự nhiên của đãi về phần mình xơi.

Mắng người, người chẳng chấp lời,

Tự nhiên lời mắng lại quay về mình.

 

Trang 348:

Thuyết nghiệp báo không như tiền định,

Không buộc ràng số mạng thần linh.

Việc làm phản ứng dữ lành,

Thay nhơn đổi nghiệp tự mình chủ trương.